ĐỖ XUÂN CẨM
Thành phố Huế khác hẳn một số thành phố trên dải đất miền Trung, không chỉ ở các lăng tẩm, đền đài, chùa chiền, thành quách… mà còn khác biệt ở màu xanh thiên nhiên hòa quyện vào các công trình một cách tinh tế.
Lắm du khách cho rằng Huế là một kiệt tác muôn màu, muôn vẻ, mà ở đó bàn tay con người đã biết vận dụng những gì thiên phú để biến Huế thành một thành phố xanh. Thực tế thì Huế xanh thật, thậm chí rất xanh khi so với một số thành phố công nghiệp. Trong mảng màu xanh ấy, còn có nét đặc thù cho Huế. Đó là cách phối trí cây, tính phong phú, đa dạng, tính lịch sử, tính đặc hữu…
Cho đến nay, chưa thấy một công trình khoa học nào tổng kết và đưa ra một kết luận thuyết phục nhằm nói lên tính đặc thù này. Có chăng chỉ là dư âm những con đường một thời mang tên cây và giờ đây đang đi dần vào dĩ vãng.
Một trong số những nét độc đáo của cây xanh xứ Huế là sở hữu loài cây Ngô đồng, loài cây có lịch sử bắt nguồn từ thời Minh Mạng, và cũng là loài cây đã hằn sâu dấu ấn cho biết bao người. Có thể nói rằng, Ngô đồng Huế là một loài cây di tích.
VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC
Tên gọi và vị trí phân loại
![]() |
Hiện nay, khi nói đến Ngô đồng, không phải mọi người Việt Nam, ai cũng chỉ nghĩ đến một loài cây cụ thể, mà thực ra mỗi người nghĩ một khác. Ngay cả trong các tài liệu khoa học thực vật xuất bản mấy chục năm trở lại đây cũng thể hiện sự thiếu đồng nhất về tên gọi này. Hiện tượng đồng quy tên gọi gây ra những hạn chế không nhỏ cho việc cảm nhận một loài cây lịch sử đáng trân quý. Vì thế, cây Ngô đồng ở Huế cũng đã một thời được nhìn nhận không chính xác. Vậy cây Ngô đồng hiện có ở Huế là loài cây gì? Theo nhiều tài liệu nghiên cứu về khu hệ thực vật Việt Nam thì ở núi rừng Việt Nam có nhiều loài thuộc họ Trôm (Sterculiaceae) có hình thái gần giống cây Ngô đồng ở Huế, khiến người ta dễ nhầm lẫn chúng. Đó là Ngô đồng (Firmiana simplex (L.) W.F. Wight.), Ngô đồng đỏ (Firmiana colorata (Roxb.) R.Br.) và Bài cành (Sterculia populifolia Roxb). Nếu không quan sát kỹ hình thái cây, đặc biệt là hình thái lá qua các thời kì sinh trưởng của cây và màu sắc hoa, cấu tạo quả hạt, thì chúng ta dễ nhầm lẫn từ loài này sang loài khác. Chẳng hạn như, nếu so sánh hình vẽ lá Ngô đồng trên Nhơn Đỉnh - 1835 với lá cây Ngô đồng trưởng thành hiện có ở Huế thì ai cũng nghĩ rằng đó là hai loài khác nhau. Và cũng vì thế, cụ Nguyễn Hữu Đính đã nêu ra giả thuyết “Hoặc nghệ nhân đã căn cứ vào hình vẽ trên một quyển sách xuất bản ở Trung Quốc, những sách Trung Quốc tôi có nghiên cứu đều chỉ có hình vẽ và mô tả loài platanifolia. Hoặc, cũng có thể trước đây ở Huế, đã có cả hai loại Ngô đồng, nhưng sau chỉ còn một” (Nguyễn Hữu Đính - Nghiên cứu Huế tập 1 - trang 205).
Thật ra, cây Ngô đồng ở Huế có cả hai kiểu lá, trong thời gian đầu của thời kì sinh trưởng, hầu hết lá trên cây đều có dạng 5 thùy, nhưng ở cây trưởng thành lá lại có ba thùy hoặc không phân thùy, cây càng già càng ít lá có thùy. Có thể, do quan sát trên cây non mà các nghệ nhân đã thể hiện trên Nhơn Đỉnh loại lá có thùy.
Theo tôi, cây Ngô đồng ở Huế thuộc chi Firmiana, chứ không phải chi Sterculia (các loài thuộc chi Sterculia có quả bì dày, hạt mau rụng, trong lúc đó các loài thuộc chi Firmiana có vỏ quả mỏng, hạt rụng đồng thời với vỏ quả). Như vậy, nó không thể là Sterculia populifolia (Bài cành, Trôm bài cành). Hai loài thuộc chi Firmiana mọc tự nhiên ở rừng Việt Nam là Ngô đồng - Firmiana simplex (L.) W.F.Wight. (Trước đây thường được gọi là Hibiscus simplex L., hoặc Sterculia platanifolia L.) và Ngô đồng đỏ (hay Bo rừng, Trôm màu) - Firmiana colorata Roxb.. Theo dẫn liệu khoa học đầy đủ thì loài Firmiana simplex phân bố tự nhiên ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam (từ Nghệ An trở ra) và các tỉnh miền Nam Trung Quốc, nhưng trong thực tế, chúng tôi đã gặp ở núi rừng huyện Dakrong, tỉnh Quảng Trị. Như vậy, điều cần xem xét tiếp theo là cây Ngô đồng ở Huế là loài nào trong hai loài thuộc chi Firmiana vừa nói. Các tài liệu đều thống nhất rằng, loài Firmiana simplex có hoa cái tập hợp thành chùm đầy lông, hoa vàng hay trắng vàng, rất ít tài liệu mô tả sắc màu của hoa đực. Trong khi đó đặc điểm có ý nghĩa quan trọng đối với việc tôn tạo cảnh quan là toàn bộ trục hoa tự đực và đài hoa đều được phủ đầy lông màu hồng tím. Do vậy khi hoa nở rộ, cả cây nhuộm một màu hồng tím gần giống hoa Anh đào, trông rất đẹp. Cây Ngô đồng ở Huế ra hoa đực rộ vào trung tuần tháng 2 âm lịch hàng năm. Ở những cây đã thành thục sinh học, hoa nở rộ sau khi cây đã rụng lá toàn phần, do vậy toàn cây chỉ có hoa. Ở những cây còn non trẻ, hoa ra có muộn hơn và lá rụng cũng chậm hơn, nên trên cây vừa có hoa vừa có lá. Hoa cái ra muộn hơn và thường xen lẫn với đợt lá mới. Qua đó theo tôi, cây Ngô đồng ở Huế chính là Firmiana simplex (L.) W.F.Wight.; hoặc chí ít cũng là một thứ (tiếng Latin là varietas, tiếng Anh là variety) của loài Ngô đồng - Firmiana simplex (L.) W.F.Wight.. và xin được gọi tên là “Ngô đồng Huế”. Nếu đây thật sự là một thứ thuộc loài Ngô đồng nói trên thì nên đặt tên khoa học cho nó là Firmiana simplex (L.) W.F.Wight. var. hueensis.
Hiện tượng đồng quy tên gọi
Ở Huế, nói đến Ngô đồng có người nghĩ đến cây Ngô đồng ở Đại nội, nhưng cũng không ít người lại nghĩ tới cây Vông đồng (có lẽ do nhầm với tên Vang đồng trong Nhĩ Nhã - trong tài liệu này Vang đồng là Ngô đồng) và cũng có người nghĩ tới cả cây Vông nem. Đây là một sự nhầm lẫn không đáng có. Cây Vông đồng thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) tên khoa học là Hura crepitans L.. Loài cây này có tán lớn, dày, thân có rất nhiều gai, lá hình tim, mép lá gợn sóng, quả hình bánh xe, khi chín phần vỏ quả trong hóa gỗ, khô dần rồi nứt ra phát thành tiếng (crepitans: nổ lách tách). Đây là cây phổ biến, được người dân trồng ở đầu làng, trước am miếu, đền đài hoặc trồng gây bóng ở một số nơi khác, nhất là ở ven các cánh đồng vùng nông thôn. Ở thành phố Huế, cây Vông đồng còn được trồng ngay trên hè phố (từng có ở đường Lê Quý Đôn, đường Lê Lợi, đường Huỳnh Thúc Kháng…). Các tỉnh miền Nam gọi là cây Mã đậu. Đây là loài phát tán mạnh, có khả năng tái sinh tự nhiên và mọc hoang ở nhiều nơi khác nhau. Cây Vông nem thuộc họ Đậu (Fabaceae), tên khoa học là Erythrina variegata L. cũng là loài cây thân có gai, thường được trồng cho trầu hoặc tiêu leo, trồng làm hàng rào hoặc mọc hoang ở nhiều nơi. Cây có hoa màu đỏ rất đẹp, lá được dùng gói nem, lá non nấu canh ăn gây an thần nhẹ, dễ ngủ. Cây phân bố tự nhiên khắp các miền của đất nước và ở các vùng sinh thái khác nhau, từ miền núi đến đồng bằng, kể cả vùng cát ven biển hoặc hải đảo.
Nhiều tài liệu khác nhau trong nước cũng có sự đồng quy tên gọi Ngô đồng:
- Phan Đức Bình (2002), trong Thuốc và sức khỏe số 204, giới thiệu ba loài Ngô đồng: (1) Ngô đồng = Dầu lai = Dầu mè = Đậu cọc rào - Jatropha curcas L. thuộc họ Euphorbiaceae; (2) Ngô đồng - Brassaiopsis ficifolia Dunn. var. ficifolia thuộc họ Araliaceae; (3) Ngô đồng = Tơ đồng - Firmiana simplex (L.) W.F.Wight. thuộc họ Sterculiaceae
- Vụ Khoa học, Công nghệ và chất lượng sản phẩm (2000), trong Tên cây rừng Việt Nam, giới thiệu ba loài Ngô đồng: (1) Ngô đồng - Firmiana simplex (L.) W.F.Wight. thuộc họ Sterculiaceae; (2) Ngô đồng đỏ - Firmiana colorata (Roxb.) R.Br. thuộc họ Sterculiaceae; (3) Ngô đồng cảnh - Jatropha podagrica Hook. thuộc họ Euphorbiaceae (loài này ở Huế gọi là cây Độc bình).
- Vũ Văn Chuyên (1977), trong Hỏi đáp thực vật tập 4, dùng tên Ngô đồng để chỉ cây Độc bình Jatropha podagrica Hook. Để ghi chú ảnh, tác giả dẫn câu “Cây Ngô đồng không trồng mà mọc”. Nếu đối chiếu với câu “Cây tơ hồng không trồng mà mọc, gái chưa chồng anh chọc anh chơi” thì quả là phức tạp. Thật ra thì cây Độc bình cũng ít mọc hoang dại phổ biến như cây Tơ hồng.
- Đỗ Tất Lợi (1986), trong Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, giới thiệu hai loài Ngô đồng: (1) Ngô đồng = Trẩu = Dầu sơn = Mộc du thụ = Thiên niên đồng - Aleurites montana (Lour.) Wils. thuộc họ Euphorbiaceae; (2) Ngô đồng - Sterculia platanifolia L. thuộc họ Sterculiaceae.
Với một số dẫn liệu về cách gọi đồng quy tên Ngô đồng cho nhiều loài cây như thế, chắc hẳn gây ra khá nhiều phức tạp cho người tìm hiểu. Từ thực tế đó, mà khi nói đến cây Ngô đồng, mỗi người nghe lại nghĩ một khác, và như thế giá trị lịch sử, di tích và tôn tạo cảnh quan của loài cây đang bàn cũng sẽ bị giảm thiểu. Nhiều du khách đến Huế sẽ thờ ơ khi nghe giới thiệu đến loài Ngô đồng, vì họ hiểu Ngô đồng là Tơ hồng, là Trôm đơn, là Trẩu, là Đậu cọc rào, là Độc bình… và như thế thì “Ngô đồng sinh hỹ, vu bỉ triêu dương” (Kinh Thi) còn có ý nghĩa gì!
Nếu hiểu Ngô đồng là Tơ hồng, là Đậu cọc rào, hay là Độc bình làm sao có được khổ thơ “Nửa năm hương tiếng vừa quen, Sân Ngô cành biếc đã chen lá vàng” và chắc rằng Đỗ Phủ cũng không viết được “Hương đạo trắc dư anh vũ lạp, Bích Ngô thê lão phượng hoàng chi”.
HIỆN TRẠNG CÂY NGÔ ĐỒNG Ở HUẾ
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì cây Ngô đồng đã được đưa từ Quảng Đông về trồng ở hai bên góc điện Cần Chánh - Đại nội - Huế từ thời vua Minh Mạng. Sau đó vua Minh Mạng sai binh biền đem lá lên rừng núi tìm kiếm để mang về trồng thêm ở các góc điện. Những cây này hiện nay không còn nữa, những cây chúng ta hiện thấy ở mặt sau điện Thái Hòa và khu vực Tả - Hữu Vu cũng chỉ là những cây đã thay thế, tuổi cây chỉ năm ba chục năm trở lại đây thôi. Trong số nhiều cây hiện hữu ở khu vực này, chỉ có 3 cây có kích cỡ lớn, chiều cao cỡ trên dưới 20 m và đường kính thân khoảng 70 - 80cm. Trong số đó, chỉ có một cây ở Tả Vu có tán đều, cành nhánh phát triển cân đối, hàng năm phát hoa mạnh và rộ khi lá đã rụng toàn phần. Đây là cây tiêu biểu nhất trong toàn bộ các cây hiện còn. Những cây còn lại có chất lượng kém, cành nhánh phát triển không cân đối, tán không đều, vài cây bị cụt ngọn trông không đẹp. Ngoài địa điểm vừa nêu, cây Ngô đồng ở Huế còn có thể tìm thấy ở vài công viên (Thương Bạc, Phú Xuân, Tứ Tượng), vài lăng tẩm (Minh Mạng, Tự Đức) nhưng tất cả cũng chỉ là cây non trẻ, tuổi cây vài ba chục năm trở lại. Do cây thuộc loại mọc nhanh, gỗ xốp, nên thường dễ ngã đổ mỗi khi gặp lốc, bão.
Dù sao, thì dấu ấn lịch sử và ý tứ thơ văn cũng đã làm cho người Huế có ý thức bảo tồn loài cây Ngô đồng. Nhờ vậy trải qua bao năm tháng, sau những cơn bão dử, cây Ngô đồng này ngã xuống, cây Ngô đồng khác lại được trồng lên. Nhờ vậy, mãi đến bây giờ cây Ngô đồng vẫn tồn tại. Nay mai, khi điện Cần Chánh được phục hồi, ắt hẳn các nhà quản lí di tích không quên trồng lại cây Ngô đồng đúng vị trí ban đầu của nó.
VỀ VIỆC BẢO TỒN CÂY NGÔ ĐỒNG Ở HUẾ
Chẳng mấy ai đã sinh ra, lớn lên ở Huế lại không khắc khoải tâm tư khi nhìn thấy hàng cây xanh ven đường trốc gốc sau cơn bão dữ, hay đang “rướm máu” dưới làn cưa, lưỡi mác. Nhiều người Huế có thể không cảm nhận được ý nghĩa cây Ngô đồng, nhưng chắc hẳn sẽ nhớ mãi những cây xanh đã một thời làm nên tên tuổi cho bao con đường trong thành phố cổ: Đoác, Muối, Me… Cây xanh ở Huế đã được người Huế bài trí như một sự điểm tô. Nó được sắp đặt, phối trí để tôn tạo cho bao công trình kiến trúc cổ và hiện đại. Trong quá trình phát triển đô thị, vì lý này, lẽ khác nhiều cây xanh phải chịu nằm xuống để rồi mãi mãi mất tên. Cũng trong quá trình đó, hệ thống cây xanh biến tướng theo chiều hướng thực dụng, chắp vá và đối phó tình huống. Nhiều loài quen thuộc mất đi, nhiều loài mới được thay thế, lắm khi phá vỡ cả phong cách tôn tạo riêng và làm mất đi cái chất Huế có tự bao giờ. Người Huế thích hoài cổ, bởi lẽ đạo lý làm người ai mà không có quá khứ. Đây cũng là một tư chất có liên quan đến công tác bảo tồn. Đành rằng, bảo tồn nhưng không bảo thủ, có nghĩa là biết bảo tồn thích nghi, nhưng cái gốc vẫn là cơ bản. Như thế, nếu chúng ta đã biết cây Ngô đồng không những là cây tôn tạo cảnh quan, mà nó còn là cây di tích, lại là một cây đẹp, dễ trồng thì chắc hẳn chúng ta rất đồng tình với việc bảo tồn cây Ngô đồng trong việc tôn tạo hệ thống cây xanh cho quần thể di tích. Ngô đồng là loài cây rụng lá toàn phần, ưa sáng, mọc nhanh, phân cành muộn, cành nhánh ngắn, mọc chếch nên tán cây gọn, có giá trị tạo cảnh nhiều hơn tạo bóng. Hoa ra rộ khi cây chưa có lá vào tiết tháng hai âm lịch. Thời điểm đó, nó sẽ điểm tô cho cảnh quan thêm phần sinh động và đẹp mắt. Sau thời kì ra hoa, cây nảy lộc cho ra màu xanh mượt mà, mát mắt để rồi chuyển sang một màu xanh ngát, cũng là một gam màu làm đẹp cho các công trình. Cây Ngô đồng không kén đất, tái sinh hạt mạnh, có thể nhân giống bằng hạt để đưa trồng ở nhiều nơi khác nhau trong thành phố. Điều quan trọng là chọn vị trí và phương thức trồng thế nào để nó phát huy được vai trò tôn tạo cảnh quan. Về phương thức trồng, chúng tôi rất đồng tình với ý kiến của cụ Nguyễn Hữu Đính, là trồng cụm; chỉ trồng đơn lẻ trong những trường hợp nhất định. Ở thành phố Tokyo, cây Ngô đồng được chọn trồng thành hàng trên dải phân cách của đường phố lớn. Đây cũng là một mô hình cần nghiên cứu, đặc biệt là đối với một vài đường phố hẹp, không thể đưa trồng các loài cây có tán rộng. Có thể có chút băn khoăn vì cây rụng lá theo mùa. Nhưng thực tế cho thấy thời gian trơ cành không lâu và liền được thay bằng một vòm hoa màu hồng phớt tím, càng làm cho bầu trời xuân thêm ấm áp và thi vị. Trong khuôn viên một vài công sở hoặc trong các công viên cũng có thể trồng Ngô đồng, nhưng nên trồng thành cụm 3 - 5 cây. Cây Ngô đồng đứng chơi vơi một mình trông rất đơn điệu. Trồng đơn độc chỉ hợp với bồn hoa trung tâm một tiền sảnh hay công viên hoặc đứng ở một góc công trình không có cây lớn che chắn. Lúc đó nó thành chủ thể của một không gian vừa phải. Khi đơn lẻ đan xen trong một hệ thống nhiều cây tán rộng, cây Ngô đồng sẽ bị che lấp đi. Nhưng dù gì đi nữa, cũng nên nghĩ tới việc phát triển số lượng có gắn liền với ý nghĩa lịch sử của nó, đừng biến nó thành một loài tầm thường như bao loài khác chỉ vì số lượng cá thể quá nhiều và đi đâu cũng bắt gặp. Có lẽ tốt nhất là nên ưu tiên phát triển trong khuôn viên Đại Nội và ở lăng Minh Mạng. Nếu xét thấy cần thiết thì có thể chọn một đường phố nào đó để trồng nhằm tạo điểm nhấn thu hút du khách. Thiết nghĩ cũng nên trồng thành hai hàng đăng đối cho một đoạn đường cửa ngõ phía Bắc dẫn vào thành phố Huế như một loài cây chỉ thị để tạo ấn tượng ban đầu cho du khách đi từ Bắc vào Huế.
Đ.X.C
(SDB17/06-15)
LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.
NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)
LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.
HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.
TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.
MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.
LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.
PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.
NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)
NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.
MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.
L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.
PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.
LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.
Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.
MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.
NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.