Mưa kim cương

15:56 25/11/2008
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

Tôi chưa được đọc Đông Hà nhiều. Vậy nên gặp chị, tôi cứ nghĩ về một miền quê cồn cào những nhọc nhằn giản dị như đất Quảng Bình ai cũng phải gọi Quê ta ơi!. Cảm giác sai bắt nguồn từ một cách thức lẫn lầm. 16 bài thơ trong tổng số 42 bài thơ của Mưa Kim Cương là thơ lục bát. Thời nay, thỉnh thoảng mới được đọc vài câu lục bát. 16 bài trong một hạt kim cương nhỏ bé quả là thật nhiều. Hồi còn là học sinh phổ thông, tôi được thầy giáo dạy rằng, thơ lục bát khó làm bởi nó rất... dễ làm! Tôi nghe mà không hiểu. Thầy giảng giải, vì ai cũng biết, vì ai cũng có trong đầu mình một vài “núi thơ” lục bát, nên làm cho hay, cho khác là khó vô cùng. Đại để, điều nhiều người biết sẽ là điều không có dễ bao giờ!

Ba giờ sáng giật mình thức dậy. Ánh mắt mỏi khờ say tỉnh của tôi bắt gặp giọt-đá-mưa thẫm buồn đang thao thức. Không chắc những dòng thơ ấy đã khó ngủ biết bao lần? Mười năm dưng dửng chiêm bao (Hồng nhan); Trĩu tim gánh mối tình đầu sang sông (Trĩu cành vông vang); Tôi giờ cười nụ không công; Đò ngang không bãi chở lòng không neo (Gió hồng); Kìa em, hoa nở dặt dìu; Và đêm đã nhớ đìu hiu sang ngày (Đêm cùng hoa huệ tây)...
Những câu thơ như những ánh sao, chi chít nhớ và bồn chồn mong đợi để cho đêm, cô quạnh hơn nỗi diết da; để Này tôi một chút thật thà; Buôn ngơ bán dại chảy qua tay người (Cõi riêng). Giật mình, tôi như bừng tỉnh bởi cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Đó chắc là bông hoa sẽ nở một mình suốt đời cô... Vẻ chi một đoá yêu đào mà văn chương ký thác nhiều nỗi tình buồn thế nhỉ! (Tựa).
Nỗi buồn trong những câu lục bát của Đông Hà, như tác giả nói, Tôi quắt quay giữa cơn đày người trao (Lời nhân gian); nhưng sao tôi vẫn thấy không vương chút nặng nề. Những tiếng thở dài, buông chịu là những cơn mưa có thật suốt đêm dài. Nhưng cuộc đời, có những câu thơ cho ta biết thế nào là nỗi đau của những khúc hát được ngân lên từ tiếng rạn vỡ của trái tim. Dẫu có hát khác xưa, khóc khác xưa như Olga Bergol nói đi nữa, vẫn là những bông hoa nở thật đẹp, dịu dàng như những cánh hoa Xuyến Chi, băng qua mọi nhọc nhằn, mưa nắng để làm ngọt mát lòng người.

Huế và Mưa có lẽ là đề tài muôn thuở như câu chuyện về tình yêu. Lời của bài hát Love Stoty khẳng định “Chuyện về tình yêu ngọt ngào còn già hơn cả biển cả” (The sweet love story that is older than the sea...); nhưng tôi dám đoán chắc mưa Huế-cái yếu tố địa-văn hoá làm nên nét riêng của văn hoá Huế còn “già” hơn cả tình yêu nữa. Nếu không có mưa Huế chắc hẳn sẽ không có những lời ca về mưa bất tử trong nhạc Trịnh. Cái đáng trân trọng nhất của Đông Hà là ở chỗ, quê chị ở Quảng Bình nhưng chị hiểu mưa Huế và nói về mưa còn sắc và sâu hơn cả người Huế nữa. Có thể nào ngoài ấy nhiều mưa và “nước mắt” lắm với Lệ Thuỷ, Nhật Lệ; nên chị biết cách để Ta thong thả nhặt mưa xâu thành chuỗi; Chuỗi mưa hôm nào hoá kỷ-niệm-kim-cương? Đọc thơ mưa của Đông Hà, tôi mới ngẫm ra một điều nho nhỏ: Tà áo dài như là sự khái quát hoá đủ đầy của văn hoá Việt, nhưng có lẽ không ở đâu, không có bao giờ có vẻ đẹp nên thơ đến thế như một chiều nhẹ mưa của Huế. Bạn hãy thử cùng tôi ngắm những tà áo dài bồng bềnh trôi như những làn sóng nhỏ trên những dòng-sông-đường-phố, sẽ biết rõ điều này. Nhất là, một tà áo dài mỏng mảnh trong mỏng mảnh sợi mưa, nhẹ nghiêng nghiêng bay theo cánh dù mỏng manh như gió, như khát tìm sự nương đỡ, chở che; khắc khiu trái tim ai đang dõi mắt kiếm tìm...

Phan Đăng-một học giả uyên thâm luôn cho tôi những bài học về sự sâu sắc, bất ngờ; nói với tôi rằng Dân gian công lực thâm hậu lắm. Từ xưa, các bậc tiền nhân hiền triết đã định nghĩa thật đúng và thật hay về miền đất Huế, “Tứ thời giai hạ tiết, nhất vũ biến thành đông” (Cả bốn mùa đều là mùa Hạ nhưng chỉ cần một cơn mưa thôi, Huế đã bước sang mùa Đông rồi đấy).
Mưa Huế có thể Chở nắng vàng, mưa trắng - kiếp phù du (Mưa Kim Cương); để Nghe mưa ướp lạnh tiếng cười; Nghe lanh canh vỡ chín mười nỗi đau (Nghe mưa). Thiên nhiên Huế là thiên nhiên của những tiếng đàn mưa trẫm ướt trong trái tim người. Chính vì thế, Huế mưa mình cũng mong thành như mưa (Gió Kinh thành); Mưa quấn chân đê ngập ngừng trong câu hát (Câu hát thuyền xuân); bắt con người phải Tong tả ra về sũng giữa cơn mưa (Một cõi chiêm bao).

Đông Hà không phải khóc mà dường như thơ chị sống thật với những cơn mưa. Có khi ngay cả trời không mưa ta vẫn nhìn thấy chúng: Huế không mưa sao thấy trắng lưng trời (Gởi người rời Huế); Mẹ ngậm ngùi ủ nắng đem trao (Hai mươi mùa hoa cải); Ta đưa tiễn nắng lưng trời (Khúc Thái Thị); Mắt bất động xoáy vào đời giông bão (Những người đàn bà làm thơ)... Mưa cứ đan vào đời, đan vào thơ chị thành niềm vui và thành cả lơ lửng những đám mây của nỗi buồn như cách diễn đạt của Hoàng Vũ Thuật: Gặp cơn mưa hôm trời đắm đuối; Em sợ mưa làm vỡ em ra (Em mong anh về); Nếu nỗi buồn là mưa rơi; Em nhặt nỗi buồn xâu thành hai chuỗi (Nỗi buồn).

Đọc Mưa Kim Cương sẽ “bắt” được những hạt mưa bình dị lóng lánh trong từng phút giây khắc khoải của cuộc đời. Ngày cuối năm, tôi đọc những hạt mưa mà như nghe thấy rất rõ tiếng thì thầm của mùa Xuân giăng nhẹ ảo huyền trong từng tiếng thơ rơi. Dù Đông Hà có lúc nghĩ phải Nhờ mưa đan hộ câu đùa tặng nhau (Thơ xưa) đi nữa, thì chắc hẳn những tâm tình khác lạ của một trong những người đàn bà làm thơ vẫn cho ta hơi thở mới day dứt đẹp sắc không ngờ:
            Hỏi trời xin một thở than
            Hỏi em, nhận một cánh tàn của hoa
(Cõi riêng)
Đông Hà khiêm hạ đó thôi. Một khi chị đã phải “đi” để Tôi về xé giọt phù sa, Ươm vào hạt giống chở qua mắt người (Nghe mưa), thì thơ chị không thể không là một hạt mưa, góp cho đời, góp cho thơ trở thành Mưa luân vũ trên đoá hồng sớm mai (Một tấm lòng).
T.V.H

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984), hiệu là Lộc Đình, người làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, thị xã Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thủ đô Hà Nội, là nhà văn, nhà nghiên cứu, biên soạn, khảo cứu, về nhiều lĩnh vực như văn học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, đạo đức học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, gương danh nhân…

  • Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.

  • Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật cho ra mắt bạn đọc một số đầu sách về sự kiện lịch sử này, về lịch sử kháng chiến Nam Bộ và về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của toàn dân Việt Nam.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.

  • Ý NHI 

    1.
    Một buổi chiều, khoảng cuối năm 1989, chúng tôi có cuộc gặp gỡ tại nhà Trần Thị Khánh Hội, trong một con hẻm rộng, quận Phú Nhuận.

  • TRẦN HOÀI ANH

    (Kỷ niệm 49 năm ngày mất cố Thi sĩ Nguyễn Bính 1966 - 2015)

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Kể từ lúc thị xã Huế được nâng lên cấp thành phố, cho đến khi người Nhật làm cuộc đảo chính hất chân người Pháp khỏi đông Dương vào ngày 9/3/1945 thì Huế vẫn là thành phố cấp 3, nhưng là thành phố của trung tâm chính trị, văn hóa, nơi đóng kinh đô cuối cùng của nhà nước quân chủ Việt Nam.

  • HỒ VĨNH  

    Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương là một thành viên trong hội thơ Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm hội chủ. Năm 1933 thi đàn đặt tên là Vỹ Hương thi xã, qua năm 1950 các thi hữu bắt đầu đổi tên Vỹ Hương thi xã thành Hương Bình thi xã.

  • Mùa xuân chiếm một ví trí quan trọng trong thơ Nguyễn Trãi. Xuân hiện lên bằng nhiều vẻ dáng khác nhau, được khắc họa bằng nhiều cung bậc khác nhau. Mỗi một bài thơ xuân như là một trang nhật kí và cảm xúc của cuộc đời thi nhân.

  • Đọc sách Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (ảnh, NXB Khoa học xã hội, Sách Khai tâm, quý 1/2015) của Hoàng Xuân Hãn là cách để “gặp lại” danh tướng Lý Thường Kiệt.

  • CAO HUY THUẦN

    Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.

  • NGUYÊN QUÂN

    Những lúc bứt thoát được những hệ lụy cuộc sống, tôi chỉ thích được lang thang lên mạng, mong bắt gặp một câu thơ, một dòng văn nào đó gần gũi với tâm trạng để ru dỗ mình bằng những phút giây đồng điệu.

  • Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Tế Hanh có dáng vẻ của một thi sĩ hơn cả, không phải chỉ bởi “đôi mắt nồng nàn lạ” (Hoài Thanh-Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam) mà còn là, hay chính là, bởi vẻ buồn ngơ ngác của ông, không phải chỉ trên vẻ mặt mà cả trong cách hành xử, ứng đối của ông với mọi người, mọi sự.

  • DA VÀNG

    (Đọc tập thơ Tùng Gai của Bạch Diệp, Nhà xuất bản Văn Học, 8/2014)

  • NGUYỄN VĂN NHẬT THÀNH

    Đồng hành cùng cuộc chuyển mình lớn lao của đất nước, văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến cuộc vật lộn âm thầm nhưng quyết liệt của bao văn nghệ sĩ trên hành trình tìm kiếm “sinh lộ” mới cho văn chương Việt.

  • Kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -2014), NXB Quân đội Nhân dân vừa ấn hành cuốn sách Về cội nguồn Quân đội Nhân dân Việt Nam.

  • YẾN THANH

    Nếu nói một cách đơn giản rằng Đông phương luận hiện đại là một khía cạnh của cả chủ nghĩa đế quốc lẫn chủ nghĩa thực dân thì sẽ ít ai có thể tranh cãi được. Tuy nhiên, nói như thế chưa đủ. Cần phải trình bày nó một cách có phân tích, có tính lịch sử”. [Edward Wadie Said, Đông phương luận, Nxb. Tri thức, 2014, tr.200]

  • NGUYỄN KHẮC VIỆN

    Với một Gavroche, Victor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ của cha anh, dẫu chỉ một vài cá nhân; thế mà sách vở về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắc nợ các em rất nhiều.

  • "Hạnh phúc tại tâm" là cuốn sách mới nhất của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa được dịch ra tiếng Việt. Sách chỉ ra hạnh phúc nằm trong bản thân mỗi con người, ở từng thời điểm chúng ta sống.