Một số ý kiến về đào tạo "Văn hóa học"

10:15 07/12/2009
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Vấn đề đào tạo "Văn hóa học" hiện nay đang được hai cơ quan thực hiện. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã đào tạo bậc cao học. Học viên sau 3 năm theo học bậc cao học (mỗi năm 4 tháng, chia 2 kỳ) sẽ viết luận văn và bảo vệ luận văn. Nếu bảo vệ thành công luận văn các học viên sẽ được cấp bằng thạc sĩ văn hóa học. Khóa I cao học Văn hóa học được tổ chức từ năm 1993, hiện nay trường đang đào tạo khóa III và khóa IV.

Từ 1997 Viện Văn hóa Nghệ thuật (hai cơ quan trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Viện Văn hóa nghệ thuật - có trụ sở tại thủ đô và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh - đều do Bộ Văn hóa Thông tin quản lý) tổ chức đào tạo sau đại học về văn hóa học, lấy bằng tiến sỹ văn hóa học. Trong khi đó việc đào tạo văn hóa học lại chưa được tổ chức ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội hoặc bất kỳ cơ sở đại học nào trên phạm vi toàn quốc.

Xung quanh vấn đề đào tạo văn hóa học, có nhiều ý kiến khác nhau, cũng không phải không có người phát biểu rằng: làm gì có ngành khoa học nào gọi là văn hóa học, văn hóa học là một cái gì đó mà một số kẻ bịa ra.

Thực ra, với người Việt chúng ta ngày nay thì nhiều ngành khoa học, nhiều khái niệm khoa học do phương Tây, châu Âu đưa tới.

Mỹ học, lý luận văn học, triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị học, luật học, xã hội học... do người châu Âu đưa lại cho chúng ta. Có lẽ không ai phản đối khái niệm mỹ học, lý luận văn học, lý luận nghệ thuật hay sân khấu học. nhưng với khái niệm văn hóa học thì lại khác.

Một số người nào đó kịch liệt bài bác khái niệm văn hóa học, một số người khác lại nhiệt tình thành ủng hộ. Điều đó có mấy lý do.

1- Văn hóa học: là một khái niệm xuất hiện cách đây chưa lâu. Do vậy người Việt chúng ta chưa quen với thuật ngữ này cũng như cách quan niệm về thuật ngữ này. Hẳn không ai trong chúng ta lên tiếng phủ định khái niệm lý luận văn học hay mỹ học, bởi nó đã xuất hiện khá sớm, ngày nay chúng ta tiếp thu lại từ người châu Âu.

Về văn hóa học thì từ hậu bán thế kỷ XIX trong giới học giả, xuất hiện một khuynh hướng (tendence) hay trào lưu nghiên cứu về văn hóa văn hóa học, về văn hóa của các tộc người nguyên thủy... từ Taylor, Bacofen... qua Freud, Malinovskie và C.Lévy-Strauss... Xu hướng hay trào lưu này ngày một gia tăng, một phát triển và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Ngay cả triết gia marxist nổi tiếng là Plékhanov (Nga) cũng có thể coi là một người cũng tham gia vào trào lưu văn hóa học này với tác phẩm nổi tiếng. Nghệ thuật và đời sống xã hội mà bản tiếng Pháp là L'art et la vie sociale (bản dịch tiếng Việt được dịch từ bản Pháp ngữ).

Năm 1949 học giả White sử dụng khái niệm văn hóa học (culturologia). Lần lượt một số nhà khoa học ở Liên bang Xô viết (trước đây), Cộng hòa dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức cũng sử dụng khái niệm này. Ở CHDC Đức và CHLB Đức đều có khái niệm Kultur- wissenschft, nghĩa là khoa học văn hóa (văn hóa học)

Tại nước ta, từ sau hòa bình lập lại, người ta chú ý, thoạt tiên đến vấn đề lý luận văn học, rồi mỹ học và lý luận nghệ thuật. Dần dần giới nghiên cứu hướng sự chú ý nhiều hơn tới vấn đề văn hóa và văn hóa học. Điều này cũng tương tự như thế ở Liên bang Xô viết trước đây. Phải tới một lúc nào đó giới nghiên cứu mới ý thức được cần phải chú ý tới văn hóa và văn hóa học. Và trên phạm vi toàn cầu cũng như vậy. Mỹ học, lý luận văn học, lý luận nghệ thuật... xuất hiện trước, tới một lúc nào đó giới học giả mới chú ý tới những cái gọi là lý luận văn hóa và văn hóa học.

2- Một nguyên do khác là khái niệm văn hóa học, bản thân nó có một nội hàm rộng lớn, y như khái niệm văn hóa vậy. Ngày nay chúng ta đang chứng kiến một sự lạm phát, một sự bội thực về khái niệm văn hóa, không những có rất nhiều định nghĩa văn hóa mà người ta còn đưa ra rất nhiều những khái niệm văn hóa như văn hóa thời trang, văn hóa ẩm thực, văn hóa xí nghiệp, văn hóa kinh tế, văn hóa quân sự, văn hóa chính trị... Người ta cũng thấy các tác phẩm thuộc trào lưu văn hóa học kể trên có thể được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như dân tộc học (ethuographic) tác phẩm của Sigmund Freud)... khai thác. Chính bởi vậy mà nội hàm của khái niệm văn hóa học, nhiều khi tỏ ra mênh mông, khó xác định.

Nhưng dẫu sao, theo ý riêng tôi, và cũng là ý kiến của không ít người, thì văn hóa học là một khái niệm thực, có thật, có lịch sử phát sinh và phát triển của nó. Nó là một ngành khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu mà người ta phải chiếm lĩnh phải hoạt động, thúc đẩy sự phát triển như những ngành khoa học khác.

Ở nước ta từ sau khi các tác phẩm như Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy của Cosven và sau đó tác phẩm Bản chất của văn hóa của Carpov được dịch ra tiếng Việt thì sự quan tâm của giới chuyên môn và dư luận xã hội với văn hóa và văn hóa học ngày một tăng.

Ta có thể kể ở đây một số tác phẩm của Phan Ngọc, Từ Chi, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm... dầu rằng sách của Trần Ngọc Thêm cóp nhặt khá nhiều ý kiến của Kim Định ở Sài Gòn trong thời gian từ 1956 đến 1975.

Nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc học, văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa Đông Nam Á... cũng có thể được coi là thuộc về mảng sách văn hóa học.

Nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa học cần phải được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa, nhất là khi xã hội chú ý tới vai trò quan yếu của văn hóa, coi văn hóa như là động lực phát triển của xã hội cũng mục đích của sự phát triển.

Văn hóa học bao gồm trong nó hai lĩnh vực. Một là lý luận văn hóa. Hai là lịch sử văn hóa. Lý luận văn hóa nói ở đây bao gồm và bộ môn Đường lối văn hóa của Đảng. Còn lịch sử văn hóa bao gồm Lịch sử văn hóa Việt Nam và Lịch sử văn hóa thế giới. Tương ứng với Lịch sử văn hóa Việt Nam chính là bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam và tương ứng với Lịch sử văn hóa thế giới là bộ môn Lịch sử văn minh nhân loại, cả hai đang được dạy tại một số trường đại học ở nước ta.

Nếu nói tới lịch sử văn hóa Việt Nam thì phải nói tới tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương (1938) của học giả nổi tiếng Đào Duy Anh. Sau này, vài năm sau hòa bình lập lại, cụ Đào Duy Anh còn cho xuất bản không ít tác phẩm bàn về lịch sử văn hóa, do nhà xuất bản Xây dựng ấn hành.

Hiện tại việc đào tạo văn hóa học sau đại học với hai bậc học thạc sỹ và tiến sỹ được phân cho đơn vị khác nhau là Đại học Văn hóa và Viện Văn hóa, trong khi mà việc đào tạo văn hóa học bậc đại học lại chưa có. Trong vài năm trước rõ ràng trường Đại học Văn hóa Hà Nội cần phải đào tạo bậc đại học văn hóa học, mỗi năm chừng độ 30 đến 40 sinh viên. Đây là lực lượng nòng cốt cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học một cách chính quy, được đào tạo bài bản. Lực lượng này sẽ tham gia thì đầu vào cao học văn hóa học cũng như tiến sỹ văn hóa học, trong khi mà cử nhân một số ngành khoa học xã hội-nhân văn và nghệ thuật văn học, ngôn ngữ học, lý luận nghệ thuật (lý luận sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật...), sử học, triết học... cùng một số ngành học thuộc trường Đại học Văn hóa Hà Nội như phát hành sách, văn hóa quần chúng, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa du lịch, quần chúng văn hóa các dân tộc thiểu số và miền núi, thư viện.

Như vậy một tổ bộ môn văn hóa học hùng mạnh tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội là điều chúng ta cần tính tới. Thứ nữa một khoa văn hóa học tại trường là điều cần xây dựng tiếp theo. Khoa văn hóa học này có nhiệm vụ đào tạo các cử nhân văn hóa học, cung cấp cán bộ lý luận và cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về văn hóa học cho bản thân trường Đại học Văn hóa, cho Viện Văn hóa Nghệ thuật, cho các cơ sở đại học và các cơ quan quản lý văn hóa trong phạm vi cả nước, cùng các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học thuộc các trường đại học ở Việt Nam. Khoa văn hóa học cũng có nhiệm vụ giảng dạy cho sinh viên các khoa nghiệp vụ khác (không phải văn hóa học) trong toàn trường Đại học Văn hóa, như các khoa thông tin thư viện, phát hành sách, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa quần chúng...

Về mặt tổ chức, năm 1993, đã hình thành một tổ văn hóa học với nhiều bộ phận như lý luận văn hóa, đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, xã hội học văn hóa...

Tuy nhiên tổ bộ môn này chỉ tồn tại trong khoảng một năm. Lý do tan vỡ của nó, chủ yếu do mối quan hệ cá nhân giữa các thành viên trong tổ. Nay là lúc sự tái thành lập của tổ bộ môn này là đòi hỏi bức xúc của sụ nghiệp đào tạo cán bộ về văn hóa học.

Xuất bản một tập giáo trình về lý luận văn hóa học là một điều cần thiết. Giáo trình về đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng do Bộ Văn hóa Thông tin biên soạn đã có 2 quyển khác nhau. Một tập xuất bản năm 1985, một tập khác xuất bản gần đây, do hai ban biên soạn khác nhau.

Về lịch sử văn hóa chúng ta đã có 2 tập Lịch sử văn minh phương Đông Lịch sử văn minh phương Tây của Hoa Kỳ (trước đây đã được dịch và in ấn ở Sài Gòn thời ngụy) nay Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin in lại. Một vài công trình khác do người Việt biên soạn, trên cơ sở tham khảo những tác phẩm nghiên cứu của nước ngoài. Sắp tới NXB Văn hóa thông Tin sẽ cho phát hành bộ sách lớn Lịch sử phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa nhân loại (L'histoire de la développement des sciences, techniques et cultures). Bộ sách quan yếu này do Unesco tổ chức biên soạn, từ 1951 đến 1968, gồm 9 tập lớn khổ 21 x 29, mỗi tập dày 750 trang (bản Pháp ngữ), được xuất bản liên tục trong 5 năm, từ 1968 tới 1973. Sự ra đời của bộ sách này bằng tiếng Việt sẽ góp phần làm phong phú thêm mảng sách về văn hóa học và sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu văn hóa học. Hai bộ sách về Lịch sử văn hóa Trung Quốc đã được xuất bản.

Việc nghiên cứu văn hóa học sẽ phải bao gồm cả lĩnh vực nghiên cứu về tôn giáo. Theo cách quan niệm rộng rãi mà tác giả bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam đã chỉ ra, thì tôn giáo thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã hội, và cũng thuộc về phạm trù văn hóa.

Việc nghiên cứu và giảng dạy về các vùng văn hóa Việt Nam cũng rất cần thiết. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, địa hình phong phú và phức tạp, đất nước trải dài từ Bắc chí Nam, với nhiều vùng có đặc trưng văn hóa rất khác nhau. Thời gian vừa qua cũng có nhiều quyển sách bàn tới vấn đề này.

Như vậy Tổ văn hóa học thuộc Trường Đại học Văn hóa Hà Nội sẽ phải bao gồm cả bộ phận sau:

1-Lý luận văn hóa (kể cả Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng)
2-Lịch sử văn hóa
2.1-Lịch sử Văn hóa Việt Nam
2.2-Lịch sử văn hóa thế giới
2.2.1-Lịch sử văn hóa Trung Hoa
2.2.2-Lịch sử văn hóa Ấn Độ
2.2.3-Lịch sử văn hóa Nhật Bản
2.2.4-Lịch sử văn hóa Pháp
2.2.5-..........
3- Văn hóa và tôn giáo
4- Các vùng văn hóa Việt Nam.

Đ.V.B
(124/06-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?