Một số ý kiến về đào tạo "Văn hóa học"

10:15 07/12/2009
ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Vấn đề đào tạo "Văn hóa học" hiện nay đang được hai cơ quan thực hiện. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã đào tạo bậc cao học. Học viên sau 3 năm theo học bậc cao học (mỗi năm 4 tháng, chia 2 kỳ) sẽ viết luận văn và bảo vệ luận văn. Nếu bảo vệ thành công luận văn các học viên sẽ được cấp bằng thạc sĩ văn hóa học. Khóa I cao học Văn hóa học được tổ chức từ năm 1993, hiện nay trường đang đào tạo khóa III và khóa IV.

Từ 1997 Viện Văn hóa Nghệ thuật (hai cơ quan trường Đại học Văn hóa Hà Nội và Viện Văn hóa nghệ thuật - có trụ sở tại thủ đô và chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh - đều do Bộ Văn hóa Thông tin quản lý) tổ chức đào tạo sau đại học về văn hóa học, lấy bằng tiến sỹ văn hóa học. Trong khi đó việc đào tạo văn hóa học lại chưa được tổ chức ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội hoặc bất kỳ cơ sở đại học nào trên phạm vi toàn quốc.

Xung quanh vấn đề đào tạo văn hóa học, có nhiều ý kiến khác nhau, cũng không phải không có người phát biểu rằng: làm gì có ngành khoa học nào gọi là văn hóa học, văn hóa học là một cái gì đó mà một số kẻ bịa ra.

Thực ra, với người Việt chúng ta ngày nay thì nhiều ngành khoa học, nhiều khái niệm khoa học do phương Tây, châu Âu đưa tới.

Mỹ học, lý luận văn học, triết học Mác - Lênin, kinh tế chính trị học, luật học, xã hội học... do người châu Âu đưa lại cho chúng ta. Có lẽ không ai phản đối khái niệm mỹ học, lý luận văn học, lý luận nghệ thuật hay sân khấu học. nhưng với khái niệm văn hóa học thì lại khác.

Một số người nào đó kịch liệt bài bác khái niệm văn hóa học, một số người khác lại nhiệt tình thành ủng hộ. Điều đó có mấy lý do.

1- Văn hóa học: là một khái niệm xuất hiện cách đây chưa lâu. Do vậy người Việt chúng ta chưa quen với thuật ngữ này cũng như cách quan niệm về thuật ngữ này. Hẳn không ai trong chúng ta lên tiếng phủ định khái niệm lý luận văn học hay mỹ học, bởi nó đã xuất hiện khá sớm, ngày nay chúng ta tiếp thu lại từ người châu Âu.

Về văn hóa học thì từ hậu bán thế kỷ XIX trong giới học giả, xuất hiện một khuynh hướng (tendence) hay trào lưu nghiên cứu về văn hóa văn hóa học, về văn hóa của các tộc người nguyên thủy... từ Taylor, Bacofen... qua Freud, Malinovskie và C.Lévy-Strauss... Xu hướng hay trào lưu này ngày một gia tăng, một phát triển và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Ngay cả triết gia marxist nổi tiếng là Plékhanov (Nga) cũng có thể coi là một người cũng tham gia vào trào lưu văn hóa học này với tác phẩm nổi tiếng. Nghệ thuật và đời sống xã hội mà bản tiếng Pháp là L'art et la vie sociale (bản dịch tiếng Việt được dịch từ bản Pháp ngữ).

Năm 1949 học giả White sử dụng khái niệm văn hóa học (culturologia). Lần lượt một số nhà khoa học ở Liên bang Xô viết (trước đây), Cộng hòa dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức cũng sử dụng khái niệm này. Ở CHDC Đức và CHLB Đức đều có khái niệm Kultur- wissenschft, nghĩa là khoa học văn hóa (văn hóa học)

Tại nước ta, từ sau hòa bình lập lại, người ta chú ý, thoạt tiên đến vấn đề lý luận văn học, rồi mỹ học và lý luận nghệ thuật. Dần dần giới nghiên cứu hướng sự chú ý nhiều hơn tới vấn đề văn hóa và văn hóa học. Điều này cũng tương tự như thế ở Liên bang Xô viết trước đây. Phải tới một lúc nào đó giới nghiên cứu mới ý thức được cần phải chú ý tới văn hóa và văn hóa học. Và trên phạm vi toàn cầu cũng như vậy. Mỹ học, lý luận văn học, lý luận nghệ thuật... xuất hiện trước, tới một lúc nào đó giới học giả mới chú ý tới những cái gọi là lý luận văn hóa và văn hóa học.

2- Một nguyên do khác là khái niệm văn hóa học, bản thân nó có một nội hàm rộng lớn, y như khái niệm văn hóa vậy. Ngày nay chúng ta đang chứng kiến một sự lạm phát, một sự bội thực về khái niệm văn hóa, không những có rất nhiều định nghĩa văn hóa mà người ta còn đưa ra rất nhiều những khái niệm văn hóa như văn hóa thời trang, văn hóa ẩm thực, văn hóa xí nghiệp, văn hóa kinh tế, văn hóa quân sự, văn hóa chính trị... Người ta cũng thấy các tác phẩm thuộc trào lưu văn hóa học kể trên có thể được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như dân tộc học (ethuographic) tác phẩm của Sigmund Freud)... khai thác. Chính bởi vậy mà nội hàm của khái niệm văn hóa học, nhiều khi tỏ ra mênh mông, khó xác định.

Nhưng dẫu sao, theo ý riêng tôi, và cũng là ý kiến của không ít người, thì văn hóa học là một khái niệm thực, có thật, có lịch sử phát sinh và phát triển của nó. Nó là một ngành khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu mà người ta phải chiếm lĩnh phải hoạt động, thúc đẩy sự phát triển như những ngành khoa học khác.

Ở nước ta từ sau khi các tác phẩm như Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy của Cosven và sau đó tác phẩm Bản chất của văn hóa của Carpov được dịch ra tiếng Việt thì sự quan tâm của giới chuyên môn và dư luận xã hội với văn hóa và văn hóa học ngày một tăng.

Ta có thể kể ở đây một số tác phẩm của Phan Ngọc, Từ Chi, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm... dầu rằng sách của Trần Ngọc Thêm cóp nhặt khá nhiều ý kiến của Kim Định ở Sài Gòn trong thời gian từ 1956 đến 1975.

Nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc học, văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa Đông Nam Á... cũng có thể được coi là thuộc về mảng sách văn hóa học.

Nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa học cần phải được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa, nhất là khi xã hội chú ý tới vai trò quan yếu của văn hóa, coi văn hóa như là động lực phát triển của xã hội cũng mục đích của sự phát triển.

Văn hóa học bao gồm trong nó hai lĩnh vực. Một là lý luận văn hóa. Hai là lịch sử văn hóa. Lý luận văn hóa nói ở đây bao gồm và bộ môn Đường lối văn hóa của Đảng. Còn lịch sử văn hóa bao gồm Lịch sử văn hóa Việt Nam và Lịch sử văn hóa thế giới. Tương ứng với Lịch sử văn hóa Việt Nam chính là bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam và tương ứng với Lịch sử văn hóa thế giới là bộ môn Lịch sử văn minh nhân loại, cả hai đang được dạy tại một số trường đại học ở nước ta.

Nếu nói tới lịch sử văn hóa Việt Nam thì phải nói tới tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương (1938) của học giả nổi tiếng Đào Duy Anh. Sau này, vài năm sau hòa bình lập lại, cụ Đào Duy Anh còn cho xuất bản không ít tác phẩm bàn về lịch sử văn hóa, do nhà xuất bản Xây dựng ấn hành.

Hiện tại việc đào tạo văn hóa học sau đại học với hai bậc học thạc sỹ và tiến sỹ được phân cho đơn vị khác nhau là Đại học Văn hóa và Viện Văn hóa, trong khi mà việc đào tạo văn hóa học bậc đại học lại chưa có. Trong vài năm trước rõ ràng trường Đại học Văn hóa Hà Nội cần phải đào tạo bậc đại học văn hóa học, mỗi năm chừng độ 30 đến 40 sinh viên. Đây là lực lượng nòng cốt cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học một cách chính quy, được đào tạo bài bản. Lực lượng này sẽ tham gia thì đầu vào cao học văn hóa học cũng như tiến sỹ văn hóa học, trong khi mà cử nhân một số ngành khoa học xã hội-nhân văn và nghệ thuật văn học, ngôn ngữ học, lý luận nghệ thuật (lý luận sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật...), sử học, triết học... cùng một số ngành học thuộc trường Đại học Văn hóa Hà Nội như phát hành sách, văn hóa quần chúng, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa du lịch, quần chúng văn hóa các dân tộc thiểu số và miền núi, thư viện.

Như vậy một tổ bộ môn văn hóa học hùng mạnh tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội là điều chúng ta cần tính tới. Thứ nữa một khoa văn hóa học tại trường là điều cần xây dựng tiếp theo. Khoa văn hóa học này có nhiệm vụ đào tạo các cử nhân văn hóa học, cung cấp cán bộ lý luận và cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về văn hóa học cho bản thân trường Đại học Văn hóa, cho Viện Văn hóa Nghệ thuật, cho các cơ sở đại học và các cơ quan quản lý văn hóa trong phạm vi cả nước, cùng các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy văn hóa học thuộc các trường đại học ở Việt Nam. Khoa văn hóa học cũng có nhiệm vụ giảng dạy cho sinh viên các khoa nghiệp vụ khác (không phải văn hóa học) trong toàn trường Đại học Văn hóa, như các khoa thông tin thư viện, phát hành sách, bảo tồn-bảo tàng, văn hóa quần chúng...

Về mặt tổ chức, năm 1993, đã hình thành một tổ văn hóa học với nhiều bộ phận như lý luận văn hóa, đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, xã hội học văn hóa...

Tuy nhiên tổ bộ môn này chỉ tồn tại trong khoảng một năm. Lý do tan vỡ của nó, chủ yếu do mối quan hệ cá nhân giữa các thành viên trong tổ. Nay là lúc sự tái thành lập của tổ bộ môn này là đòi hỏi bức xúc của sụ nghiệp đào tạo cán bộ về văn hóa học.

Xuất bản một tập giáo trình về lý luận văn hóa học là một điều cần thiết. Giáo trình về đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng do Bộ Văn hóa Thông tin biên soạn đã có 2 quyển khác nhau. Một tập xuất bản năm 1985, một tập khác xuất bản gần đây, do hai ban biên soạn khác nhau.

Về lịch sử văn hóa chúng ta đã có 2 tập Lịch sử văn minh phương Đông Lịch sử văn minh phương Tây của Hoa Kỳ (trước đây đã được dịch và in ấn ở Sài Gòn thời ngụy) nay Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin in lại. Một vài công trình khác do người Việt biên soạn, trên cơ sở tham khảo những tác phẩm nghiên cứu của nước ngoài. Sắp tới NXB Văn hóa thông Tin sẽ cho phát hành bộ sách lớn Lịch sử phát triển khoa học, kỹ thuật, văn hóa nhân loại (L'histoire de la développement des sciences, techniques et cultures). Bộ sách quan yếu này do Unesco tổ chức biên soạn, từ 1951 đến 1968, gồm 9 tập lớn khổ 21 x 29, mỗi tập dày 750 trang (bản Pháp ngữ), được xuất bản liên tục trong 5 năm, từ 1968 tới 1973. Sự ra đời của bộ sách này bằng tiếng Việt sẽ góp phần làm phong phú thêm mảng sách về văn hóa học và sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu văn hóa học. Hai bộ sách về Lịch sử văn hóa Trung Quốc đã được xuất bản.

Việc nghiên cứu văn hóa học sẽ phải bao gồm cả lĩnh vực nghiên cứu về tôn giáo. Theo cách quan niệm rộng rãi mà tác giả bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và Văn hóa Việt Nam đã chỉ ra, thì tôn giáo thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã hội, và cũng thuộc về phạm trù văn hóa.

Việc nghiên cứu và giảng dạy về các vùng văn hóa Việt Nam cũng rất cần thiết. Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, địa hình phong phú và phức tạp, đất nước trải dài từ Bắc chí Nam, với nhiều vùng có đặc trưng văn hóa rất khác nhau. Thời gian vừa qua cũng có nhiều quyển sách bàn tới vấn đề này.

Như vậy Tổ văn hóa học thuộc Trường Đại học Văn hóa Hà Nội sẽ phải bao gồm cả bộ phận sau:

1-Lý luận văn hóa (kể cả Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng)
2-Lịch sử văn hóa
2.1-Lịch sử Văn hóa Việt Nam
2.2-Lịch sử văn hóa thế giới
2.2.1-Lịch sử văn hóa Trung Hoa
2.2.2-Lịch sử văn hóa Ấn Độ
2.2.3-Lịch sử văn hóa Nhật Bản
2.2.4-Lịch sử văn hóa Pháp
2.2.5-..........
3- Văn hóa và tôn giáo
4- Các vùng văn hóa Việt Nam.

Đ.V.B
(124/06-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.