Một lát cắt

14:09 28/12/2009
DẠ NGÂNLúc ấy đã gần trưa. Những thời khắc cam go nhất của một ngày đang sắp qua đi. Một ngày ở đây bắt đầu từ rất sớm với những phập phồng quen thuộc.

Nhà văn Dạ Ngân - Ảnh: lethieunhon.com

Có thể sẽ có máy bay trinh sát của đối phương lượn lờ dậm doạ rồi biến mất một cách khả nghi. Có thể bom sẽ nổ liên hồi trước khi nghe thấy tiếng pháo đài bay B.52, hoặc cũng có thể chỉ tiếng pháo từ chi khu dọn đường cho một trơi máy bay trực thăng để rồi trên cánh đồng sẽ lố nhố những đội lính đi càn. Một bên lò dò tiến vào, một bên căng mắt giáp trận, thế là thêm một ngày hủy diệt nhau, một tình huống chiến tranh vừa cổ điển vừa dị thường, lặp đi lặp lại.

Sáng sớm hôm ấy không có máy bay trinh sát, không có bom bừa cũng không có máy bay trực thăng đổ quân. Nghe thấy tiếng không gian giãn ra thư thái. Nghe thấy tiếng cỏ reo trên cánh đồng để hoang, nghe thấy tiếng những con cá sống sót đớp mồi trong mương liếp, nghe thấy tiếng con sông thong thả rì rầm. Từ đầu bờ cây trâm bầu hậu vườn, chàng trung đội trưởng dõng dạc giải tán lệnh trực chiến. Những người lính trẻ lẳng lang rời khỏi mép công sự thả lõng tâm tư tận hưởng một ngày chắc chắn không có chạm súng. Có người đi sục trái chín sót lại trong những mảnh vườn không dân. Có tiếng rủ nhau đi tát mương bắt cá cho bữa ăn trưa. Có người khe khẽ hát để ăn mừng một ngày không có tàn sát.

Trung đội trưởng cầm theo trái pháo dù đi vào giữa vườn cây. Một chàng trai U Minh cao lớn điển hình, những chàng tân binh nói anh có cái uy của người ít nói. Nhưng anh đang háo hức không yên với trái pháo chống tăng trong tay, thứ vũ khí mới được phân phát từ những chiếc tàu không số đi bằng đường biển vào. Người ta ca ngợi rằng khi hết đạn B.40 thì không cần làm Cù Chính Lan anh hùng, người lính có thể dùng nó để “tiếp chuyện” với lũ thiết giáp như ném một quả lựu đạn. Anh nhập tâm ngay những lời ngợi ca truyền miệng ấy và thấy quả pháo gọn ghẽ tuyệt vời với ba thớt thuốc trong màu xanh thép có han một cái tay cầm cho người sử dụng. Ai đã phát minh ra loại vũ khí cừ khôi này để giáp lá cà với lũ thiết giáp nghênh ngang luôn làm tường thành cho lũ bộ binh phía sau? Anh sinh ra trong chiến tranh, anh hít thở bằng chiến tranh và anh vồ vập những thứ phụng sự chiến tranh. Anh yêu quý chúng vì chúng giúp anh và đồng đội chiến thắng kẻ thù, anh thường xuyên nghe thấy mùi hộp mới cứng của chúng. Chúng không có tim có óc nhưng chúng cần cho bọn anh lúc này, cần hơn tất cả.   

Anh ngồi xuống mép chõng tre trong căn chòi vốn là nhà của dân để họ tá túc mỗi khi từ chỗ tản cư lướt về mót cây mót củi mang đi. Sự trang trọng nín thở. Anh ngắm nghía nhiều lần món khí tài có tên truyền miệng là pháo dù. Nó quá xứng đáng để tò mò và ngưỡng mộ. Không ai muốn nhìn thấy bên trong một quả lựu đạn vì nhắm mắt cũng có thể hình dung trong đó có những gì. Nhưng đây là trái pháo dù có hẳn ba thớt thuốc với một cái chốt giật đơn giản. Sẽ là ba kíp nổ ba ngăn lần lượt hay tất cả là một tiếng nổ choáng váng với tầm sát thương rộng? Anh nghe thấy dòng máu dồi dào sinh lực không yên trong người. Hồi chưa đăng lính, mỗi khi hì hục kéo xuồng qua mặt đập ngăn mặn ở xã nhà, anh thường nghĩ, nếu không bận chiến trận, nhất định anh sẽ làm hai đường ray để dân tình qua lại đỡ khổ. Và nếu là lính công binh xưởng nhất định anh se làm ra nhiều thứ vũ khí kỳ lạ hơn từ nguồn thuốc nổ tận thu. Anh muốn và anh muốn, nhưng chỗ đứng của anh là đây, mỗi ngày, với những người lính lúc nào cũng nhìn vào anh cùng những thứ vũ khí với những quy tắc giản đơn nhưng lại ẩn chứa sức mạnh của bí mật.

Hai chàng tân binh đang đi ra phía bờ sông sau khi đã giao cho anh nuôi số cá trong mương vừa kiếm được. Người trung đội trưởng nhìn nhanh, anh đang tập trung vào chiếc vòng giật trên nắp trái pháo chống tăng. Anh nghe tiếng họ ngồi xuống bên anh, nghe thấy cả tiếng thở phập phồng trai trẻ. Một người quê ở Cái Nước, người kia quê ở Đầm Dơi, cùng dân Cà Mau cả, Cà Mau là nguồn của quân chủ lực, thật de chịu khi nhận về những người đồng hương ăn to nói lớn và cũng phải thú thực rằng anh đã đau khổ nhiều hơn khi phải đưa vào nghĩa trang những đồng hương ấy sau mỗi trận đánh. Anh nghe thấy giữa anh và hai người lính mới toe đang ngồi vòng quanh anh đây sự liên kết kỳ diệu như ruộng đồng, như lúa khoai, như ruột thịt. Chiến tranh hay cướp đi những người ưu tú nhưng nó thường chừa lại cho người sống sót khả năng trưởng thành vượt bậc. Anh biết anh là tâm điểm của trung đội, anh là một tấm gương và nhất cử nhất động gì của anh cũng khiến hai chàng tân binh này hứng thú.

Một tiếng nổ. Giữa trời quang mây tạnh đã vang lên một tiếng nổ kinh hoàng. Những tiếng nổ từ người mình gây ra bao giờ cũng mồ côi, đanh và gọn như vậy. Nó báo hiệu những tổn thất thê thảm. Những chàng trai khát khao khám phá đã tan tành. Không có những cái chết giống hệt nhau nhưng luôn có những cái chết từ bat cẩn hay ngờ nghệch. Không sao lý giải được một người dạn dày như chàng trung đội trưởng mà lại khinh suất như thế. Ba mạng người, ba tờ báo tử, ba vong hồn ngơ ngác không biết mình có được gọi là liệt sĩ hay không?

Một tiếng nổ có sức cảnh báo nhưng không là cuối cùng thuộc dạng này trong chiến tranh. Bởi luôn có những chàng trai từ nhỏ đã say mê bẻ đôi món đồ chơi mình có trong tay để xem trong ấy là gì. Và, khi buộc phải tồn tại từng ngày một với súng đạn thì việc rọc rạch tò mò với chúng đôi khi lại là sự thư giãn hồn nhiên mà họ luôn thấy thiếu.

D.N

(250/12-09)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN NGỌC LỢITối đó bản Phiệt có buổi liên hoan văn nghệ. Cơm chiều xong Tản đưa tôi vào đó chơi. Chúng tôi đang chuẩn bị đi thì một cô đang dẹp đám cuốc xẻng trong góc lán nói vọng ra. Anh Tản mà đưa anh ấy đi thì có mà... Anh ấy đẹp trai, gái bản theo hết, mất phần đấy... Tản cười, cho theo bớt chứ một mình tôi... mệt lắm.

  • LÊ NGUYÊN NGỮTrong bối cảnh rạt rào gió bấc và nắng trải vàng như mật bên ngoài báo hiệu Tết sắp vê, con ngựa cũng đứng dạng bốn chân như lắng nghe câu chuyện đầy hoài niệm mà Tư Gồng bắt đầu kể tôi nghe. Giản dị vì đây là câu chuyện về chính nó, Tư Gồng trước kia đã lần khân hẹn khất với tôi chờ đến Tết Con Ngựa. Mà lúc này thì đã là cuối tháng chạp rồi.

  • NGUYỄN QUANG LẬPChiều ba mươi tết, Quỳ đạp xích lô ra ga, tính đón khách chuyến tàu vét rồi gửi xích lô, bắt xe đò về quê. Vừa vào sân ga, tàu chưa về đã có khách gọi, may thế. Khách là một trung niên mặt rỗ, quần bò áo thun, kính đen gọng vàng.

  • ĐỖ KIM CUÔNG1... Cho đến lúc sực tỉnh, tôi mới nhận ra con đường ra cánh đồng tôm và những vườn dừa dưới chân núi Đồng Bò.

  • HỒNG NHU Xóm phố nằm trên một khu đất trước đây là một dẫy đồi nghe nói vốn là nơi mồ mả dày đặc, phần lớn là mồ vô chủ không biết từ bao đời nay; và cũng chẳng biết nơi nào có nơi nào không, bởi vì gần như tất cả mồ mả ở đó đều đã bị thời gian mưa gió bào mòn, chẳng còn nấm ngôi gì cả.

  • TRẦN HẠ THÁP1*Gã nằm xuống thoải mái. Cảm giác mát lạnh của ghế đá còn rịn hơi sương buổi sớm thu giúp gã chợp mắt ngay. Công viên thành phố không chỉ là bạn đời của những ai không nhà, các tên chích choác, kẻ sống ngoài vòng luật pháp... Đây cũng là nơi khá thân quen đối với người như gã. Ít ra đã hơn bốn tháng qua, từ khi gã rời một khách sạn năm sao trong thành phố.

  • THÁI KIM LAN"Làm sao biết từng nỗi đời riêngĐể yêu thương yêu cho nồng nàn”                              Trịnh Công Sơn

  • THÁI KIM LAN(tiếp theo)

  • NGUYỄN ĐẶNG MỪNGLGT: Cuộc sống cứ lao về phía trước, song những tâm hồn đa cảm thì lại hay ngoảnh nhìn về phía sau. Nước nhảy lên bờ là ánh nhìn về những ngày đã qua giữa một vùng quê bình yên của “đêm trước đổi mới”. Một bức tranh quê sống động, dung dị song ngổn ngang những cảnh đời, những cảnh tình mà chúng ta không được phép quên, bởi tư duy đổi mới của đất nước hãy còn tiếp diễn...

  • VĨNH NGUYÊNNgô - bạn tôi rủ tôi về làng Chẻ.Đến thành phố H.H., tôi mượn chiếc xe máy của một người quen. Tôi chở Ngô về làng An Hải Trung.

  • I. Nàng là nhân vật chính của vở kịch. Vở kịch đang diễn ra. Những chủ đề về tình yêu và hôn nhân, về ước mơ và sự thật, về hoài vọng và định mệnh, về sinh ly và tử biệt, v.v và v.v... đan chéo và quyện chặt vào nhau, tạo nên một trường nghĩa lơ mơ lan man đầy ảo dị mà qua đó, những nhân vật còn lại cứ tông tốc xoay xỏa quanh một nhân vật trung tâm đang chơi trò mê hoặc: nhân vật chính.

  • Đó là lần thứ mười Malio quay về góc phố ấy. Phố hẹp, những căn nhà mặt tiền nhấp nhô, khách sạn lấp lánh đèn chen cửa hàng tơ lụa, phòng tranh sơn mài phương Đông sát với những quán cà phê nho nhỏ bài trí kiểu Tây phương...

  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.

  • Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.

  • Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.

  • Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.

  • Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.

  • Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.

  • Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.

  • 1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.