Một bông hồng cho Hai Bà Trưng

16:34 10/04/2014

TRẦN VIẾT NGẠC

Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 hằng năm là ngày bông hồng lên ngôi. Bông hồng để tặng người yêu, tặng bạn gái, bông hồng cho mẹ, cho chị, cho cô giáo, cho nữ đồng nghiệp… nói chung là “một nửa nhân loại” được vinh dự nhận những bông hồng tuyệt đẹp! Nhưng, một bông hồng cho Hai Bà Trưng, hai nữ anh hùng đã đốt lên ngọn lửa bất khuất đầu tiên của dân tộc, thì không!

Hai Bà Trưng trong tranh giấy dó dân gian

Oái ăm ở chỗ là chúng ta kỷ niệm ghép ngày Hai Bà Trưng tử tiết ở dòng sông Hát ngày 6 tháng 02 âm lịch với ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 dương lịch.

Kỷ niệm ghép (sinh viên khoa Du Lịch của tôi còn cay đắng gọi là kỷ niệm khuyến mãi!) một ngày kỷ niệm dương lịch với một ngày kỷ niệm âm lịch là không ổn! Những ngày húy nhật của các danh nhân dân tộc trong lịch sử, của ông bà tổ tiên trong gia phả luôn luôn được ghi chép bằng ngày tháng âm lịch. Lễ hội lịch sử, lễ hội dân gian từ làng đến nước cũng được tổ chức theo ngày tháng âm lịch. Đó là truyền thống văn hoá dân tộc đã trải qua nghìn đời, khắc sâu vào ký ức, vào tâm linh dân tộc. Kỷ niệm Hai Bà Trưng vì thế phải nên tổ chức vào ngày truyền thống 6 tháng 2 âm lịch, không thể kỷ niệm vào một ngày tháng dương lịch!

Thứ đến, Hai Bà Trưng xứng đáng được chúng ta ghi ơn một cách khác hơn!

Henry Kissinger, trong cuốn hồi ký “Những năm ở Nhà trắng” đã có nhận định khá sâu sắc về truyền thống lịch sử của dân tộc ta. Rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc sinh ra với lòng tự trọng bẩm sinh, không chịu cúi đầu trước kẻ thù. Tinh thần bất khuất đó đã được un đúc và thử thách suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nó thấm vào trong dòng máu của mỗi người Việt, khiến cho “Những anh hùng tứ xứ đã tìm đến đất nước hiền hoà đó, một đất nước rặt một màu xanh của rừng, của đồng ruộng và của biển, với mong muốn áp đặt lên đó một trật tự mới đã thất bại và nếu không nằm vĩnh viễn lại đó thì cũng ra đi với sự thất vọng não nề!”

Lòng tự trọng bẩm sinh, tinh thần bất khuất đó đã được khởi đầu với Hai Bà Trưng.

Lễ Kỷ niệm Hai Bà Trưng năm 1957 - (Ảnh tư liệu)


Dân tộc ta, sau thời đại Hùng Vương, đã chìm vào đêm dài nô lệ. Kể từ khi Triệu Đà xâm lược nước Âu Lạc của An Dương Vương năm 179 trước công nguyên cho đến khi Ngô Quyền đuổi được quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi, xây dựng nền tự chủ (938) dân tộc ta đã trải qua một cuộc trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc suốt 1.117 năm!

Ai là người khởi đầu cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trường kỳ ấy? Thưa, Hai Bà Trưng.

Khi bị Triệu Đà xâm lược rồi sau đó bị nhà Hán đô hộ, dân tộc ta đang ở thời kỳ buổi đầu dựng nước. So với Trung Quốc đã thống nhất từ nhà Tần, Lạc Việt là một dân tộc nhỏ yếu hơn nhiều, có lẽ vì thế, cuộc khởi nghĩa đầu tiên đã diễn ra rất chậm. Gần hơn hai thế kỷ (219 năm), kể từ khi bị Nam Việt thôn tính rồi nhà Hán đô hộ, dân tộc ta mới đủ sức mạnh để quật khởi! Thời gian hơn tám thế hệ tưởng như có thể xoá đi vĩnh viễn dân tộc Lạc Việt thì may thay, Hai Bà Trưng đã cùng dân tộc trổi dậy đuổi được kẻ thù ra khỏi bờ cõi, dựng nên một nhà nước độc lập, tồn tại được ba năm (40 - 43).

Chúng ta, không ai không khỏi rùng mình, rúng động tâm can trước giả thiết “Nếu cuộc khởi nghĩa Mê Linh thất bại!” Thử ngẫm nghĩ mà xem, sau 219 năm bị ngoại thuộc, cuộc khởi nghĩa mới nổ ra, và nếu cuộc khởi nghĩa đó thất bại liệu có thể có cuộc khởi nghĩa thứ hai của Bà Triệu năm 248? Và cuộc khởi nghĩa Bà Triệu đã thất bại! Liệu sau hơn bốn thế kỷ (179 - 248) mà dân tộc ta chưa một lần quật khởi thành công, có còn tinh thần và niềm hy vọng để tiếp tục khởi nghĩa? Và như thế, liệu có thể có thời đại Vạn Xuân trong lịch sử dân tộc?

Rùng mình, rúng động tâm can vì nếu cuộc khởi nghĩa Mê Linh thất bại thì dân tộc ta đã bị diệt vong, cùng chung số phận với các dân tộc trong cộng đồng Bách Việt. Vị cứu tinh của dân tộc Lạc Việt, đã khiến cho dân tộc tiếp tục quật khởi để xây dựng nên những triều đại độc lập về sau như Đại Việt và Đại Nam, góp mặt với thế giới hôm nay chính là Hai Bà Trưng.

Nếu cần chọn một vị anh hùng biểu trưng cho lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc suốt 1.117 năm ngoại thuộc thì không ai khác hơn là Hai Bà Trưng.

Với ba năm độc lập sau khi đốt lên ngọn đuốc bất khuất đầu tiên, Hai Bà đã để lại cho các thế hệ sau một bài học quý giá.

“Đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm giải phóng dân tộc để giành lại nền độc lập, thì sớm muộn dân tộc ta cũng thành công!”

Hai Bà đã thành công trong cuộc khởi nghĩa đầu tiên, đã xây dụng một nước độc lập sau hơn tám thế hệ sống dưới ách ngoại thuộc. Đó là một kinh nghiệm bằng vàng, đó là khởi đầu một niềm tin tất thắng cho các cuộc khởi nghĩa tiếp theo. Xin hãy dành một bông hồng cho Hai Bà Trưng trong ngày kỷ niệm ghép 8/3 vì Hai Bà Trưng xứng đáng với vạn bông hồng trong ngày kỷ niệm 6 tháng 2 âm lịch truyền thống.

T.V.N
(SDB12/03-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN HỮU THÔNG     (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.

  • NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.

  • TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.

  • TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).

  • LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời  với thiết chế bản mường chặt chẽ.

  • TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.

  • PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.

  • LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.

  • TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...

  • NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.

  • NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.

  • NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

  • LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.

  • TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.