LGT: Etgar Keret sinh ngày 20/8/1967 tại Ramat Gan, Israel. Nhà văn nổi tiếng với truyện ngắn và kịch bản phim, có ảnh hưởng lớn tới lớp nhà văn trẻ hiện nay ở Israel.
Ảnh: internet
Keret thành danh với tập truyện thứ hai, Ga’aguai le-Kissinger (1994; Nhớ Kissinger), gồm 50 truyện cực ngắn. Từ 1999, truyện của ông bắt đầu được dịch và đăng trên báo chí tiếng Anh. Có hơn 40 phim ngắn được dựng từ truyện của ông. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Truyện của Etgar Keret thường giản dị, dùng ngôn ngữ thường đàm, nhưng đan xen những diễn biến hằng ngày với sự việc kỳ quái trong con mắt thản nhiên của nhân vật. Tuy vậy, ông lại tuyên bố không gởi gắm một thông điệp nào trong truyện cả. Mấy tập truyện khác của ông là Hakaytana Shel Kneller (1998; Những trại viên hạnh phúc của Kneller), Anihu (2002), và Pitom Defikah Ba-delet (2010; Đột nhiên, một tiếng gõ cửa). Truyện sau đây được dịch từ Suddenly, a Knock on the Door (2012), bản tiếng Anh của Pitom Defikah Ba-delet.
ETGAR KERET
Mở khóa kéo
Nó bắt đầu với một nụ hôn. Nó hầu như luôn luôn bắt đầu với một nụ hôn. Ella và Tsiki đang trên giường, trần truồng, chỉ có lưỡi của họ chạm nhau thì cô cảm thấy có cái gì cứa vào cô. “Anh làm em đau hả?” Tsiki hỏi, và khi cô lắc đầu, hắn nói thêm rất lẹ. “Em chảy máu kìa.” Và quả thế, miệng cô chảy ra máu. “Anh xin lỗi,” hắn nói và bắt đầu tìm kiếm điên cuồng trong nhà bếp, kéo một khay làm nước đá thỏi từ tủ đông ra và đập xuống mặt bàn bếp. “Này, cầm lấy,” hắn nói, trao cho cô vài thỏi nước đá với bàn tay run rẩy. “Ép vào môi đi. Cầm máu được đấy.” Tsiki luôn giỏi giang trong những chuyện thế này. Trong quân đội hắn từng là nhân viên cứu thương. Hắn cũng là hướng dẫn viên du lịch có tay nghề. “Anh xin lỗi,” hắn nói tiếp, trông tái xanh hơn, “Chắc anh cắn phải em rồi. Em biết đó, trong cơn mê cuồng.” “Hông ó ì âu,” cô mỉm cười với hắn, thỏi nước đá dính vào môi dưới của cô. “Âu ó chiện gì.” Dĩ nhiên đó là một lời dối trá. Bởi vì có chiện ì ó đã xảy ra. Đâu phải ngày nào người sống chung với bạn cũng làm bạn chảy máu, rồi nói trớ đi với bạn và bảo rằng hắn đã cắn nhầm phải bạn trong khi bạn cảm thấy rõ có cái gì đó cứa vào bạn.
Họ không hôn nhau nữa suốt mấy ngày sau đó, vì vết rách của cô. Môi là bộ phận rất nhạy cảm của cơ thể. Và sau đó khi có thể hôn nhau, họ phải rất cẩn thận. Cô thấy rõ là hắn đang che giấu điều gì đó. Và quả thế, đêm nọ, thừa lúc hắn ngủ với cái miệng há rộng, cô nhẹ nhàng luồn ngón tay vào dưới lưỡi của hắn - và tìm thấy cái đó. Nó là một cái khóa kéo. Một khóa kéo nhỏ xíu. Nhưng khi cô kéo nó, toàn bộ Tsiki của cô mở ra như một con hàu, và bên trong đó là Jurgen. Không như Tsiki, Jurgen có chòm râu dê, mớ tóc mai tỉa tót tỉ mỉ và một con cu không cắt bì. Ella ngắm anh ta trong giấc ngủ. Một cách rất, rất lặng lẽ, cô gấp lớp vỏ Tsiki lại và giấu nó trong ngăn đựng chén trong nhà bếp, sau thùng rác, nơi họ cất những túi để đựng rác.
Cuộc sống với Jurgen không dễ dàng gì. Chuyện tình dục thì kỳ quái, nhưng anh ta uống rượu rất dữ, và khi uống, anh ta quậy um sùm và vướng vào đủ thứ tình trạng khó gỡ. Và hơn hết, anh ta thích làm cho cô cảm thấy có lỗi vì cô là lý do khiến anh ta rời châu Âu và đến sống ở đây. Mỗi khi có chuyện tồi tệ xảy ra ở đất nước này, dù trong cuộc đời thật hay trên ti vi, anh ta đều nói với cô, “Coi cái đất nước của em đi đến đâu kìa. “Tiếng Hebrew của anh ta thật tệ, và cụm từ “của em” trong giọng anh ta luôn nghe có vẻ rất kết án. Cha mẹ cô không thích anh ta. Mẹ cô, vốn thật sự rất thương Tsiki, đã gọi Jurgen là thằng ngoại bang. Cha cô luôn hỏi han anh ta về công việc và Jurgen thường cười nửa miệng và nói, “Công việc cũng giống như ria mép thôi, bác Shviro ạ. Nó lỗi mốt từ lâu lắm rồi.” Điều này chẳng ai thấy buồn cười cả, cha của Ella lại càng không, ông té ra cũng nuôi ria mép.
Sau cùng, Jurgen bỏ đi. Anh ta trở lại Dusseldorf chơi nhạc và sống bằng phúc lợi. Anh ta chẳng bao giờ có thể thành công trong nghề ca sĩ ở đất nước này, anh ta bảo vậy, bởi vì mọi người không thích giọng phát âm của anh ta. Dân ở đây bị thiên kiến. Họ không ưa người Đức. Ella nghĩ rằng ngay cả ở Đức thứ nhạc kỳ quái và ca từ bình dân của anh ta chẳng giúp anh ta thành công lắm. Anh ta thậm chí còn viết một bài về cô. Nó được đặt tựa “Nữ thần” và cả bài chỉ nói chuyện làm tình trên đê chắn sóng và chuyện, khi cô đạt đỉnh điểm thì nó “giống con sóng vỡ tung trên tảng đá” ra sao - một câu trích trong bài là vậy.
Sáu tháng sau khi Jurgen bỏ đi, cô cần tìm một túi đựng rác và thấy lớp vỏ Tsiki. Cô nghĩ, có lẽ mở khóa kéo của hắn là một sai lầm. Có thể lắm. Với những chuyện như vậy thì thật khó nói chắc. Cũng tối đó, khi đang đánh răng, cô hồi tưởng lại nụ hôn đó, và cảm giác đau khi bị cứa. Cô súc miệng với rất nhiều nước và nhìn vào gương. Cô vẫn còn mang vết sẹo, và khi nhìn kỹ vào nó, cô thấy một khóa kéo nhỏ xíu bên dưới lưỡi của mình. Ella sờ mó nó với vẻ lưỡng lự, và cố tưởng tượng chính mình bên trong thì ra sao. Nó khiến cô đầy hy vọng, nhưng cũng gây chút ưu tư - chủ yếu là về đôi bàn tay bị tàn nhang và một nước da khô. Có thể cô có một hình xăm đóa hồng, cô nghĩ vậy. Cô vẫn luôn muốn có một hình xăm, nhưng chẳng bao giờ có gan làm vậy. Cô nghĩ việc đó hẳn là đau lắm.
Phạm Viêm Phương dịch
(SH283/09-12)
SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.
BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.
JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).
KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...
MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.
YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.
MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!
AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.
HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.
OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979 những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.
NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.
OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.
BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.
RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.
TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết. TSCH
JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.
A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".
ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.
ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.