PHẠM PHÚ PHONG
Thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, hay nói đúng hơn là cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Nghĩa là toàn bộ những yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật của một hiện tượng văn học.
Ảnh: vansudia.net
Với Thạch Lam, đây không phải là lần đầu tiên nghiên cứu các yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật trong sáng tác của ông. Theo một thống kê không đầy đủ, ít nhất cũng đã có ba mươi công trình với các qui mô khác nhau đã nghiên cứu về đời văn Thạch Lam, trong đó ít nhiều đã đề cập đến các cấu trúc nghệ thuật, các yếu tố hợp thành ngôn từ, về thời gian, không gian, nhân vật, kể truyện, bình luận, ngoại đề, đối thoại, mở đầu, dẫn dắt, kết thúc... Nhưng để có một cái nhìn đầy đủ về hệ thống nghệ thuật với tư cách là một chỉnh thể hình thức mang tính nội dung, buộc phải tìm đến lý thuyết thi pháp học.
Cũng chính vì lẽ đó và đồng thời để tránh một con đường đi vòng đã chi chít những dấu chân, xin phép tự giới hạn trong phạm vi truyện ngắn và gom lại thành mấy vấn đề như sau:
1. Với một nhận thức thẩm mĩ sáng rõ, Thạch Lam đã xác định "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lõi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng trang 294). Đó là quan niệm nghệ thuật hết sức đúng đắn và mới mẻ, chạm đến vấn đề căn cốt của sáng tạo, có giá trị lâu bền, tạo cho dòng mực trong ngòi bút của Thạch Lam chảy theo một lối rẽ khác với những người cùng nhóm trong Văn đoàn Tự Lực, nhưng đồng thời cũng không giống với quan niệm của những nhà hiện thực phê phán, bởi lẽ, điểm xuất phát đến với văn chương của ông từ một phía khác. Thạch Lam cũng đặt ra tiêu chí đầu tiên cho tác phẩm là sự chân thực, là phải "tự cày bừa lấy trang sách nói về người nhà quê trong văn chương", nhưng ông lấy thế giới hiện thực chung quanh làm nền tảng, ông đòi hỏi "phải biết quan sát bè trong và biết đi sâu vào “bí mật những tâm hồn ấy" (trang 300). Nhưng nếu chỉ có thế thì Thạch Lam đã tự xếp vào hàng những nhà hiện thực phê phán và đứng gần các cây bút phân tích tâm lý sắc sảo như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thạch Lam cho rằng: Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết" (trang 281) và "qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lý của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lý người ngoài". Nghĩa là cái hiện thực mà nhà văn quan tâm, đặt lên hàng đầu, là hiện thực tâm trạng, khai thác tận cùng những cảm xúc, quan niệm của tâm hồn mình để khám phá thế giới. Hay nói đúng hơn, cảm xúc tâm trạng của nhà văn bao giò cũng xuất phát từ thế giới hiện thực, nhưng được biểu hiện qua bút pháp lãng mạn, làm cho Thạch Lam vừa gần gũi với các nhà hiện thực, vừa mang vóc dáng lãng mạn, trữ tình.
Từ quan niệm hiện thực vận động trong con người đã đưa đến một thế giới đông đảo, phong phú, đủ "thập loại chúng sinh" về đứng chật trong thế giới tâm hồn của Thạch Lam. Xin đừng vội tin vào "tuyên ngôn" của các nhà văn. Khi Thạch Lam phác thảo về Chân dung người nhà quê trong văn chương như tựa đề một tiểu luận viết vào năm 1939 của ông, chúng ta chớ vội tin là toàn bộ sáng tác của ông viết về những người lao khổ. Thế giới nghệ thuật của ông là thế giới của những người nghèo khó cam chịu như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), chị Sen (Đứa con); những người ý thức thân phận như Tâm (Cô hàng xén); Lan và Huệ (Tối ba mươi); Liên (Một đời người); Dung (Hai lần chết), những người chân quê phố huyện như vợ chồng ông bà Cả và cô Lan (Tình xưa), người bà và cô Nga (Dưới bóng hoàng lan); Liên và An (Hai đứa trẻ)... nhưng ngòi bút của ông còn có thiện cảm cả với những người giàu có, những người mà số phận đã ban cho một đời sống sung túc như gia đình của chị em Lam, Sơn (Gió lạnh đầu mùa), Thanh (Một cơn giận), tấm lòng xót thương vì một tiếng chim kêu của những người có mức sống trung lưu (Tiếng chim kêu), thậm chí thương cả những người đầm Tây "những người Pháp thật, những người chưa bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi (...) lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân thiết hiểu biết những người đàn bà ấy" (Người đầm, trang 98). Có thể nói rằng con người trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, cả những người nghèo khổ đến kẻ giàu sang, cả những người đói vật vã vì cái ăn, cái mặc đến những người may mắn trong đời đều có tâm trạng buồn thương cam chịu về thân phận làm người - những con người có độ dư của những phẩm chất làm người, như chính cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người của tác giả, khác với con người làm trò, con người đáng rơi phẩm chất làm người trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan; khác với con người oan trái nhưng không bị tha hóa bởi hoàn cảnh trong sáng tác của Ngô Tất Tố; khác với con người bị vật hóa, con người bán dần sự sống của chính bản thân mình, lê tấm thân vật vã áo cơm trong sáng tác của Nam Cao; khác với con người vô nghĩa lý trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng; đồng thời cũng khác với tư duy của những nhà lãng mạn, với con người giao hòa nhân ái của Xuân Diệu; con người hành động cải tạo xã hội vì mục tiêu cá nhân với nhiều ảo tưởng xa vời của Nhất Linh, Khái Hưng... Tâm hồn Thạch Lam là đối tượng cho nhà văn khám phá và miêu tả. Đó là một khối thủy tinh trong suốt, mỏng mảnh, dễ vỡ, không quen va chạm với những xung đột, mâu thuẫn khắc nghiệt, ngay cả lúc ông tả Một cơn giận hoặc Hai lần chết mà chẳng thấy có gì đáng giận hoặc chưa thấy cái chết đâu cả, nhưng mỗi khi khép lại những trang cuối truyện, tâm hồn ta cứ phảng phất một nỗi buồn thương nhẹ nhàng nhưng day dứt, sâu nặng khó nguôi về thân phận con người.
2. Một quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng là tiền đề của một thi pháp nghệ thuật tương ứng. Thạch Lam thường kể chuyện theo tuần tự phát triển của thời gian, khó tìm thấy những yếu tố kỹ thuật mang tính chất "làm văn". Đọc lại những hồi ký Những kỷ niệm chia bùi xẻ ngọt cùng Thạch Lam của Đinh Hùng, Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu Thạch Lam thẩm âm của Hoàng Điệp Thứ Lan (1965); Người em thứ sáu của Nguyễn Thị Thế; Tìm kiếm Thạch Lam của Thế Uyên; Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng của Nguyễn Tường Giang... chúng ta thấy hầu hết những truyện của Thạch Lam đều là những chuyện có thật, chuyện trong gia đình, trong bạn bè được ông kể lại bằng một lối kể bình thường, chân chất và hầu hết đều dưới điểm nhìn của nhân vật tôi - vừa là nhân vật, vừa là người trần thật, vừa là tác giả. Do đó, những ý kiến cho rằng văn chương của Tự Lực văn đoàn nói chung, của Thạch Lam nói riêng đều là tình thương theo kiểu ban ơn của những người giàu có, dư dật cúi xuống những mảnh đời nghèo khổ ngày nay đã tỏ ra thiếu cơ sở, vì gia đình của anh em nhà Nguyễn Tường đã từng nghèo khó sa sút. Thạch Lam và người chị thứ năm đã từng dọn quán hàng xén đợi chuyến tàu đêm ở phố huyện Cẩm Giàng. Với cái nhìn hiện thực sinh động, Thạch Lam đã tìm ra trong những chuyện thường ngày tưởng như không có chuyện ấy những điều cần kể, và khi đã kể thì lập tức thành chuyện. Chuyện một đêm mưa gió hai anh em nằm nghe tiếng chim kêu, thương con chim muốn mở cửa đưa vào nhưng ai cũng ngại rét, sáng ngủ dậy hóa ra không phải chim mà tiếng hai cây tre chạm nhau (Tiếng chim kêu). Chuyện một lần đi xem phim, thấy một người đầm mua vé hạng nhì, đoán chắc người đầm cũng thuộc loại nghèo khó, tưởng ra "cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái dãy nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh bên cái suối" (Người đầm); Chuyện đi tàu gặp một người đồng hành đang đọc chính cuốn sách của mình viết (Cuốn sách bỏ quên); Chuyện đi đường gặp một người hành khách từng đi lính cho Tây (Người lính cũ); Chuyện có lần định lấy cắp tiền của bạn (Sợi tóc); Có truyện suốt từ đầu đến cuối là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật (Người bạn trẻ)... Nghệ thuật dẫn chuyện của Thạch Lam là sử dụng mạch phát triển ngầm của tâm lý, dòng chảy của tiềm thức, với những khoảnh khắc cô đơn trong thế giới mà đôi khi con người không có ngôn ngữ diễn tả hết tâm trạng, phải dùng đến "ngôn ngữ" của cử chỉ, nét mặt, ánh nhìn, bước đi, dáng đứng... Không thể tìm thấy một cơ sở chắc chắn nào để phủ nhận cái nguyên lý coi văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng cũng không thể không công nhận văn học đôi khi là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ chiếm lĩnh tinh thần của con người. Bởi lẽ, bản chất văn học không chỉ phản ánh hiện thực mà còn đề ra những ý thức mới, những tư tưởng nghệ thuật, mà trạng thái tinh thần, trạng thái tâm lý không phải bao giờ cũng được ý thức một cách đầy đủ. Muốn tiếp cận thế giới hình tượng của Macxel Prút, Kapka, Hemingway, của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam, hoặc sau này, của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... người đọc hóa thân vào tâm trạng nhân vật, cũng chui xuống những tầng ngầm của thế giới chưa được ý thức ấy. Từ tầng ngầm của dòng chảy ý thức mới nhận thức được sự chi phối của hệ thống các quan niệm, sự hằn nổi hình tượng tác giả trong các hình tượng văn học, mối liên hệ mật thiết giữa hình tượng không gian và thời gian, các yếu tố của thi pháp cấu trúc...
Điều quan trọng đối với Thạch Lam, là sự nhất quán trong giọng điệu và cảm xúc. Niềm yêu thương, trân trọng đối với con người của ông đã tạo cho giọng văn ông một hơi thở ấm áp, ngay cả khi kể về sự oan trái cay nghiệt của cuộc đời Thạch Lam cũng luôn giữ con người đứng bên này bờ vực của sự yêu thương cam chịu (Đói, Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi); hoặc khi đẩy nhân vật vào vực thẳm của nỗi đắng cay chua xót, ông cũng biết dừng lại, lửng lơ, mở ra những tuyến những đường cho người đọc hình dung, chứ không chỉ ra hết mọi điều, mọi lẽ (Nhà mẹ Lê, Một cơn giận, Người bạn cũ, Hai lần chết). Còn gì buồn hơn cho thân phận con người, khi vì cái đói của đàn con mà người mẹ phải liều đi vay, bị nhà giàu xua chó cắn, về nhà lên cơn mê sảng rồi chết. Nhưng còn đàn con kia chắc chắn cũng sẽ chết, không vì chó cắn mà vì cái đói đang còn đeo đuổi mãi. Người ta gom góp nhau mua cỗ áo quan chôn người mẹ xấu số! "khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ của bác Lê ngồi ở vỉa hè, con Tí đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi một lát sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa. Và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ đeo đuổi mãi không biết bao giờ mới dứt" (Nhà mẹ Lê, trang 37).
Thạch Lam biết đặt những câu, những từ đúng vị trí của nó và buộc nó hắt sáng lên vấn đề, gợi lên một cách rõ ràng những hình tượng, những trạng thái cảm xúc của tâm hồn: "Có những ngày mà tự nhiên, không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu, và hay gắt gỏng và không muốn làm việc gì". Đó là khởi đầu cho cái giận vô cớ đưa đến sự ân hận, sám hối trước nỗi đau của con người" (Một cơn giận); tình yêu đầu đời của chàng trai tỉnh và cô gái quê nơi chàng trọ học "có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây khiến chàng vươn phải" (Tình xưa), hoặc: "Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sủng, mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát" (Dưới bóng hoàng lan). Có những trang văn đẹp, gợi nhớ đến không khí Tôi đi học của Thanh Tịnh: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều" (Hai đứa trẻ).
3. Hình tượng không gian - thời gian gắn quyện với nhau để nhằm gợi sâu tâm trạng, không gian và thời gian không thể chia cắt ra được. Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi, nhà mẹ Lê gợi cho ta hình dung ra bóng tối đang đổ ập về phía số phận những con người bé nhỏ đang hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Cái nhìn lo âu của Thạch Lam luôn xoáy sâu vào những khía cạnh còn khuất tất của hiện thực. Không gian sinh hoạt của đời sống phố huyện tù đọng, giam hãm con người. Bóng tối trải dài trên quảng đường mấp mô chân trâu, trên đường phố huyện le lói ánh đèn dầu, khoảng tối đêm ba mươi trong căn buồng nhà xăm, nơi cô gái điếm đang đón giao thừa hoặc khoảng tối "trong dãy nhà lụp xụp, thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những con người gầy gò rách rưới" (trang 46). Ngay cả khi không gian nghệ thuật được Thạch Lam hé mở chan hòa ánh nắng trong Dưới bóng hoàng lan, cũng chưa có một điều gì chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cho con người, ngoài những lời hứa hẹn. Có khi, không gian nghệ thuật là một không gian lép. Người viết lướt qua không gian sinh hoạt, không gian hiện thực để vươn đến không gian suy tưởng, cô đúc, vo tròn lại, nén lại trong phạm vi một chiếc dạ dày, như không gian của Sinh (Đói), trong một khoang xe như không gian của Thành (Cuốn sách bỏ quên), trong rạp hát như không gian của Người đầm... Từ một điểm của tâm tưởng, hay là dựa trên một điểm của tâm tưởng, người viết có thể liên tưởng về không gian quá khứ, về không gian song hành hiện tại, hoặc hướng về mơ ước tương lai không lấy gì làm chắc chắn để nói lên sự tồn tại chông chênh của thân phận con người.
Cái trục không gian - thời gian nghệ thuật của Thạch Lam là nơi tồn tại một thế giới khốn cùng, quanh quẩn, ngột ngạt, từng mảnh đời vụn vỡ, có ý nghĩa khái quát, trong đó hằn sâu lên sự vấn tâm - cũng là lời đối thoại với cuộc đời của tác phẩm - rằng, liệu con người có đủ sức vùng vẫy thoát khỏi tình trạng khốn cùng của cái không gian chật hẹp ấy không?
Trong sáng tác của Thạch Lam không gian cá nhân bị dồn nén đến mức ngột ngạt, làm xuất hiện sự cô đơn của nhân vật, và khi nhân vật tự đối diện với mình làm bộc lộ sự suy tưởng. Dưới bóng tre làng đen dày, trong những căn nhà "ổ chuột" tối tăm, nhân vật của Thạch Lam miên man trong những suy nghĩ, độc thoại nội tâm, sự day đứt âm thầm và chua xót về đời mình: "Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt tối tăm và dày đặc; Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối” (Cô hàng xén, trang 146). Đối với mẹ Lê, cho đến cuối đời, trước khi chết trong cái đói vật vã của cả nhà và sự cấu xé của con chó nhà giàu, mẹ tổng kết lại đời mình: "Bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi" (Nhà mẹ Lê, trang 36). Nhân vật Sinh vật vã trên chiếc phản gỗ, trong căn nhà tối tăm, chống lại một cách bất lực với cái đói, đến nỗi "chàng chỉ muốn chết ngay lúc bây giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai" (Đói, trang 64).
Nhớ lại, hồi tưởng lại được Thạch Lam sử dụng như một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Thời gian quá khứ được hồi tưởng lại, bao giờ cũng được huyền thoại hóa với những ngọt ngào ấm áp. Nhưng với Thạch Lam, thời gian như là người bạn đường của đau khổ, nhớ lại, tưởng lại chỉ làm tăng thêm nỗi đau khổ trong hiện tại (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Một đời người, Người lính cũ, Người bạn cũ...). Thạch Lam sử dụng thời gian quá khứ đủ để diễn tả tâm trạng, còn thời gian tương lai chỉ là một giả định, một khoảng mờ tối, không được hình dung rõ ràng. Những mơ ước đời thường của con người hầu như ít diễn ra, bởi vì con người lúc nào cũng loay hoay với cái ăn, cái mặc, chống chọi với đói rét trước mắt. Thời gian hiện tại là những sinh hoạt thường nhật, là thời gian hiện thực được miêu tả song hành với thời gian tâm trạng. Đối với Liên (Một cuộc đời), quãng thời gian lấy chồng, sống dưới sự khắc nghiệt của người chồng vũ phu và mẹ chồng ác nghiệt là thời gian nặng nề, đau khổ cả đời người, mới "bảy tám năm qua mà Liên tưởng hình như lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người" (trang 72). Sự xuất hiện thường xuyên yếu tố lãng quên về khái niệm thời gian thường nhật, bởi sự tồn tại và chi phối của thời gian tâm tưởng "không nhớ là mấy tháng sau, anh Bào đến chơi nhà tôi" (Người bạn trẻ, trang 55), "Nàng không nhớ rõ gì cả. Ra đến sông lúc nào cũng không biết” (Hai lần chết, trang 89).
Thạch Lam là một tác giả sử dụng không gian và thời gian đến mức nhuần nhuyễn trong quá trình sáng tạo. Thời gian và không gian chuyển động, thay đổi, tính cách nhân vật cũng thay đổi theo. Cùng với thay đổi thời gian, không gian nghệ thuật cũng mở ra nhiều chiều, nhờ có hồi tưởng, ước mơ...
Trên đây chỉ là mấy vấn đề cơ bản trong thi pháp Thạch Lam. Cần phải có sự đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ hơn những vấn đề mà Thạch Lam đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Ví dụ, vấn đề về tính chân thực, về nghệ thuật kịp thời và vĩnh cửu, về tính cách nhân vật, về vai trò của thế giới quan và tài năng trong quá trình sáng tạo, quan niệm về thể loại tiểu thuyết... đã được ông trình bày trong tiểu luận Theo dòng cho đến nay đã hơn năm mươi năm mà vẫn còn mới mẻ, có giá trị khám phá.
Với khoảng thời gian hơn năm năm đi với văn chương, Thạch Lam đã để lại ba tập truyện ngắn, một tiểu thuyết, một tập bút ký, một tập tiểu luận, đã kịp thời tạo ra một dòng mới trong văn học sau này, với cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người. Điều đó làm cho Thạch Lam càng gần gũi với đời sống, với độc giả ngày nay.
Huế, tháng 6 năm 1992
P.P.P.
(TCSH51/09&10-1992)
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...