PHẠM PHÚ PHONG
Thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, hay nói đúng hơn là cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Nghĩa là toàn bộ những yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật của một hiện tượng văn học.
Ảnh: vansudia.net
Với Thạch Lam, đây không phải là lần đầu tiên nghiên cứu các yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật trong sáng tác của ông. Theo một thống kê không đầy đủ, ít nhất cũng đã có ba mươi công trình với các qui mô khác nhau đã nghiên cứu về đời văn Thạch Lam, trong đó ít nhiều đã đề cập đến các cấu trúc nghệ thuật, các yếu tố hợp thành ngôn từ, về thời gian, không gian, nhân vật, kể truyện, bình luận, ngoại đề, đối thoại, mở đầu, dẫn dắt, kết thúc... Nhưng để có một cái nhìn đầy đủ về hệ thống nghệ thuật với tư cách là một chỉnh thể hình thức mang tính nội dung, buộc phải tìm đến lý thuyết thi pháp học.
Cũng chính vì lẽ đó và đồng thời để tránh một con đường đi vòng đã chi chít những dấu chân, xin phép tự giới hạn trong phạm vi truyện ngắn và gom lại thành mấy vấn đề như sau:
1. Với một nhận thức thẩm mĩ sáng rõ, Thạch Lam đã xác định "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lõi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng trang 294). Đó là quan niệm nghệ thuật hết sức đúng đắn và mới mẻ, chạm đến vấn đề căn cốt của sáng tạo, có giá trị lâu bền, tạo cho dòng mực trong ngòi bút của Thạch Lam chảy theo một lối rẽ khác với những người cùng nhóm trong Văn đoàn Tự Lực, nhưng đồng thời cũng không giống với quan niệm của những nhà hiện thực phê phán, bởi lẽ, điểm xuất phát đến với văn chương của ông từ một phía khác. Thạch Lam cũng đặt ra tiêu chí đầu tiên cho tác phẩm là sự chân thực, là phải "tự cày bừa lấy trang sách nói về người nhà quê trong văn chương", nhưng ông lấy thế giới hiện thực chung quanh làm nền tảng, ông đòi hỏi "phải biết quan sát bè trong và biết đi sâu vào “bí mật những tâm hồn ấy" (trang 300). Nhưng nếu chỉ có thế thì Thạch Lam đã tự xếp vào hàng những nhà hiện thực phê phán và đứng gần các cây bút phân tích tâm lý sắc sảo như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thạch Lam cho rằng: Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết" (trang 281) và "qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lý của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lý người ngoài". Nghĩa là cái hiện thực mà nhà văn quan tâm, đặt lên hàng đầu, là hiện thực tâm trạng, khai thác tận cùng những cảm xúc, quan niệm của tâm hồn mình để khám phá thế giới. Hay nói đúng hơn, cảm xúc tâm trạng của nhà văn bao giò cũng xuất phát từ thế giới hiện thực, nhưng được biểu hiện qua bút pháp lãng mạn, làm cho Thạch Lam vừa gần gũi với các nhà hiện thực, vừa mang vóc dáng lãng mạn, trữ tình.
Từ quan niệm hiện thực vận động trong con người đã đưa đến một thế giới đông đảo, phong phú, đủ "thập loại chúng sinh" về đứng chật trong thế giới tâm hồn của Thạch Lam. Xin đừng vội tin vào "tuyên ngôn" của các nhà văn. Khi Thạch Lam phác thảo về Chân dung người nhà quê trong văn chương như tựa đề một tiểu luận viết vào năm 1939 của ông, chúng ta chớ vội tin là toàn bộ sáng tác của ông viết về những người lao khổ. Thế giới nghệ thuật của ông là thế giới của những người nghèo khó cam chịu như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), chị Sen (Đứa con); những người ý thức thân phận như Tâm (Cô hàng xén); Lan và Huệ (Tối ba mươi); Liên (Một đời người); Dung (Hai lần chết), những người chân quê phố huyện như vợ chồng ông bà Cả và cô Lan (Tình xưa), người bà và cô Nga (Dưới bóng hoàng lan); Liên và An (Hai đứa trẻ)... nhưng ngòi bút của ông còn có thiện cảm cả với những người giàu có, những người mà số phận đã ban cho một đời sống sung túc như gia đình của chị em Lam, Sơn (Gió lạnh đầu mùa), Thanh (Một cơn giận), tấm lòng xót thương vì một tiếng chim kêu của những người có mức sống trung lưu (Tiếng chim kêu), thậm chí thương cả những người đầm Tây "những người Pháp thật, những người chưa bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi (...) lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân thiết hiểu biết những người đàn bà ấy" (Người đầm, trang 98). Có thể nói rằng con người trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, cả những người nghèo khổ đến kẻ giàu sang, cả những người đói vật vã vì cái ăn, cái mặc đến những người may mắn trong đời đều có tâm trạng buồn thương cam chịu về thân phận làm người - những con người có độ dư của những phẩm chất làm người, như chính cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người của tác giả, khác với con người làm trò, con người đáng rơi phẩm chất làm người trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan; khác với con người oan trái nhưng không bị tha hóa bởi hoàn cảnh trong sáng tác của Ngô Tất Tố; khác với con người bị vật hóa, con người bán dần sự sống của chính bản thân mình, lê tấm thân vật vã áo cơm trong sáng tác của Nam Cao; khác với con người vô nghĩa lý trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng; đồng thời cũng khác với tư duy của những nhà lãng mạn, với con người giao hòa nhân ái của Xuân Diệu; con người hành động cải tạo xã hội vì mục tiêu cá nhân với nhiều ảo tưởng xa vời của Nhất Linh, Khái Hưng... Tâm hồn Thạch Lam là đối tượng cho nhà văn khám phá và miêu tả. Đó là một khối thủy tinh trong suốt, mỏng mảnh, dễ vỡ, không quen va chạm với những xung đột, mâu thuẫn khắc nghiệt, ngay cả lúc ông tả Một cơn giận hoặc Hai lần chết mà chẳng thấy có gì đáng giận hoặc chưa thấy cái chết đâu cả, nhưng mỗi khi khép lại những trang cuối truyện, tâm hồn ta cứ phảng phất một nỗi buồn thương nhẹ nhàng nhưng day dứt, sâu nặng khó nguôi về thân phận con người.
2. Một quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng là tiền đề của một thi pháp nghệ thuật tương ứng. Thạch Lam thường kể chuyện theo tuần tự phát triển của thời gian, khó tìm thấy những yếu tố kỹ thuật mang tính chất "làm văn". Đọc lại những hồi ký Những kỷ niệm chia bùi xẻ ngọt cùng Thạch Lam của Đinh Hùng, Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu Thạch Lam thẩm âm của Hoàng Điệp Thứ Lan (1965); Người em thứ sáu của Nguyễn Thị Thế; Tìm kiếm Thạch Lam của Thế Uyên; Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng của Nguyễn Tường Giang... chúng ta thấy hầu hết những truyện của Thạch Lam đều là những chuyện có thật, chuyện trong gia đình, trong bạn bè được ông kể lại bằng một lối kể bình thường, chân chất và hầu hết đều dưới điểm nhìn của nhân vật tôi - vừa là nhân vật, vừa là người trần thật, vừa là tác giả. Do đó, những ý kiến cho rằng văn chương của Tự Lực văn đoàn nói chung, của Thạch Lam nói riêng đều là tình thương theo kiểu ban ơn của những người giàu có, dư dật cúi xuống những mảnh đời nghèo khổ ngày nay đã tỏ ra thiếu cơ sở, vì gia đình của anh em nhà Nguyễn Tường đã từng nghèo khó sa sút. Thạch Lam và người chị thứ năm đã từng dọn quán hàng xén đợi chuyến tàu đêm ở phố huyện Cẩm Giàng. Với cái nhìn hiện thực sinh động, Thạch Lam đã tìm ra trong những chuyện thường ngày tưởng như không có chuyện ấy những điều cần kể, và khi đã kể thì lập tức thành chuyện. Chuyện một đêm mưa gió hai anh em nằm nghe tiếng chim kêu, thương con chim muốn mở cửa đưa vào nhưng ai cũng ngại rét, sáng ngủ dậy hóa ra không phải chim mà tiếng hai cây tre chạm nhau (Tiếng chim kêu). Chuyện một lần đi xem phim, thấy một người đầm mua vé hạng nhì, đoán chắc người đầm cũng thuộc loại nghèo khó, tưởng ra "cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái dãy nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh bên cái suối" (Người đầm); Chuyện đi tàu gặp một người đồng hành đang đọc chính cuốn sách của mình viết (Cuốn sách bỏ quên); Chuyện đi đường gặp một người hành khách từng đi lính cho Tây (Người lính cũ); Chuyện có lần định lấy cắp tiền của bạn (Sợi tóc); Có truyện suốt từ đầu đến cuối là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật (Người bạn trẻ)... Nghệ thuật dẫn chuyện của Thạch Lam là sử dụng mạch phát triển ngầm của tâm lý, dòng chảy của tiềm thức, với những khoảnh khắc cô đơn trong thế giới mà đôi khi con người không có ngôn ngữ diễn tả hết tâm trạng, phải dùng đến "ngôn ngữ" của cử chỉ, nét mặt, ánh nhìn, bước đi, dáng đứng... Không thể tìm thấy một cơ sở chắc chắn nào để phủ nhận cái nguyên lý coi văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng cũng không thể không công nhận văn học đôi khi là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ chiếm lĩnh tinh thần của con người. Bởi lẽ, bản chất văn học không chỉ phản ánh hiện thực mà còn đề ra những ý thức mới, những tư tưởng nghệ thuật, mà trạng thái tinh thần, trạng thái tâm lý không phải bao giờ cũng được ý thức một cách đầy đủ. Muốn tiếp cận thế giới hình tượng của Macxel Prút, Kapka, Hemingway, của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam, hoặc sau này, của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... người đọc hóa thân vào tâm trạng nhân vật, cũng chui xuống những tầng ngầm của thế giới chưa được ý thức ấy. Từ tầng ngầm của dòng chảy ý thức mới nhận thức được sự chi phối của hệ thống các quan niệm, sự hằn nổi hình tượng tác giả trong các hình tượng văn học, mối liên hệ mật thiết giữa hình tượng không gian và thời gian, các yếu tố của thi pháp cấu trúc...
Điều quan trọng đối với Thạch Lam, là sự nhất quán trong giọng điệu và cảm xúc. Niềm yêu thương, trân trọng đối với con người của ông đã tạo cho giọng văn ông một hơi thở ấm áp, ngay cả khi kể về sự oan trái cay nghiệt của cuộc đời Thạch Lam cũng luôn giữ con người đứng bên này bờ vực của sự yêu thương cam chịu (Đói, Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi); hoặc khi đẩy nhân vật vào vực thẳm của nỗi đắng cay chua xót, ông cũng biết dừng lại, lửng lơ, mở ra những tuyến những đường cho người đọc hình dung, chứ không chỉ ra hết mọi điều, mọi lẽ (Nhà mẹ Lê, Một cơn giận, Người bạn cũ, Hai lần chết). Còn gì buồn hơn cho thân phận con người, khi vì cái đói của đàn con mà người mẹ phải liều đi vay, bị nhà giàu xua chó cắn, về nhà lên cơn mê sảng rồi chết. Nhưng còn đàn con kia chắc chắn cũng sẽ chết, không vì chó cắn mà vì cái đói đang còn đeo đuổi mãi. Người ta gom góp nhau mua cỗ áo quan chôn người mẹ xấu số! "khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ của bác Lê ngồi ở vỉa hè, con Tí đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi một lát sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa. Và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ đeo đuổi mãi không biết bao giờ mới dứt" (Nhà mẹ Lê, trang 37).
Thạch Lam biết đặt những câu, những từ đúng vị trí của nó và buộc nó hắt sáng lên vấn đề, gợi lên một cách rõ ràng những hình tượng, những trạng thái cảm xúc của tâm hồn: "Có những ngày mà tự nhiên, không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu, và hay gắt gỏng và không muốn làm việc gì". Đó là khởi đầu cho cái giận vô cớ đưa đến sự ân hận, sám hối trước nỗi đau của con người" (Một cơn giận); tình yêu đầu đời của chàng trai tỉnh và cô gái quê nơi chàng trọ học "có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây khiến chàng vươn phải" (Tình xưa), hoặc: "Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sủng, mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát" (Dưới bóng hoàng lan). Có những trang văn đẹp, gợi nhớ đến không khí Tôi đi học của Thanh Tịnh: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều" (Hai đứa trẻ).
3. Hình tượng không gian - thời gian gắn quyện với nhau để nhằm gợi sâu tâm trạng, không gian và thời gian không thể chia cắt ra được. Trong bóng tối buổi chiều, Tối ba mươi, nhà mẹ Lê gợi cho ta hình dung ra bóng tối đang đổ ập về phía số phận những con người bé nhỏ đang hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Cái nhìn lo âu của Thạch Lam luôn xoáy sâu vào những khía cạnh còn khuất tất của hiện thực. Không gian sinh hoạt của đời sống phố huyện tù đọng, giam hãm con người. Bóng tối trải dài trên quảng đường mấp mô chân trâu, trên đường phố huyện le lói ánh đèn dầu, khoảng tối đêm ba mươi trong căn buồng nhà xăm, nơi cô gái điếm đang đón giao thừa hoặc khoảng tối "trong dãy nhà lụp xụp, thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những con người gầy gò rách rưới" (trang 46). Ngay cả khi không gian nghệ thuật được Thạch Lam hé mở chan hòa ánh nắng trong Dưới bóng hoàng lan, cũng chưa có một điều gì chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cho con người, ngoài những lời hứa hẹn. Có khi, không gian nghệ thuật là một không gian lép. Người viết lướt qua không gian sinh hoạt, không gian hiện thực để vươn đến không gian suy tưởng, cô đúc, vo tròn lại, nén lại trong phạm vi một chiếc dạ dày, như không gian của Sinh (Đói), trong một khoang xe như không gian của Thành (Cuốn sách bỏ quên), trong rạp hát như không gian của Người đầm... Từ một điểm của tâm tưởng, hay là dựa trên một điểm của tâm tưởng, người viết có thể liên tưởng về không gian quá khứ, về không gian song hành hiện tại, hoặc hướng về mơ ước tương lai không lấy gì làm chắc chắn để nói lên sự tồn tại chông chênh của thân phận con người.
Cái trục không gian - thời gian nghệ thuật của Thạch Lam là nơi tồn tại một thế giới khốn cùng, quanh quẩn, ngột ngạt, từng mảnh đời vụn vỡ, có ý nghĩa khái quát, trong đó hằn sâu lên sự vấn tâm - cũng là lời đối thoại với cuộc đời của tác phẩm - rằng, liệu con người có đủ sức vùng vẫy thoát khỏi tình trạng khốn cùng của cái không gian chật hẹp ấy không?
Trong sáng tác của Thạch Lam không gian cá nhân bị dồn nén đến mức ngột ngạt, làm xuất hiện sự cô đơn của nhân vật, và khi nhân vật tự đối diện với mình làm bộc lộ sự suy tưởng. Dưới bóng tre làng đen dày, trong những căn nhà "ổ chuột" tối tăm, nhân vật của Thạch Lam miên man trong những suy nghĩ, độc thoại nội tâm, sự day đứt âm thầm và chua xót về đời mình: "Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt tối tăm và dày đặc; Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối” (Cô hàng xén, trang 146). Đối với mẹ Lê, cho đến cuối đời, trước khi chết trong cái đói vật vã của cả nhà và sự cấu xé của con chó nhà giàu, mẹ tổng kết lại đời mình: "Bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi" (Nhà mẹ Lê, trang 36). Nhân vật Sinh vật vã trên chiếc phản gỗ, trong căn nhà tối tăm, chống lại một cách bất lực với cái đói, đến nỗi "chàng chỉ muốn chết ngay lúc bây giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai" (Đói, trang 64).
Nhớ lại, hồi tưởng lại được Thạch Lam sử dụng như một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Thời gian quá khứ được hồi tưởng lại, bao giờ cũng được huyền thoại hóa với những ngọt ngào ấm áp. Nhưng với Thạch Lam, thời gian như là người bạn đường của đau khổ, nhớ lại, tưởng lại chỉ làm tăng thêm nỗi đau khổ trong hiện tại (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Một đời người, Người lính cũ, Người bạn cũ...). Thạch Lam sử dụng thời gian quá khứ đủ để diễn tả tâm trạng, còn thời gian tương lai chỉ là một giả định, một khoảng mờ tối, không được hình dung rõ ràng. Những mơ ước đời thường của con người hầu như ít diễn ra, bởi vì con người lúc nào cũng loay hoay với cái ăn, cái mặc, chống chọi với đói rét trước mắt. Thời gian hiện tại là những sinh hoạt thường nhật, là thời gian hiện thực được miêu tả song hành với thời gian tâm trạng. Đối với Liên (Một cuộc đời), quãng thời gian lấy chồng, sống dưới sự khắc nghiệt của người chồng vũ phu và mẹ chồng ác nghiệt là thời gian nặng nề, đau khổ cả đời người, mới "bảy tám năm qua mà Liên tưởng hình như lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người" (trang 72). Sự xuất hiện thường xuyên yếu tố lãng quên về khái niệm thời gian thường nhật, bởi sự tồn tại và chi phối của thời gian tâm tưởng "không nhớ là mấy tháng sau, anh Bào đến chơi nhà tôi" (Người bạn trẻ, trang 55), "Nàng không nhớ rõ gì cả. Ra đến sông lúc nào cũng không biết” (Hai lần chết, trang 89).
Thạch Lam là một tác giả sử dụng không gian và thời gian đến mức nhuần nhuyễn trong quá trình sáng tạo. Thời gian và không gian chuyển động, thay đổi, tính cách nhân vật cũng thay đổi theo. Cùng với thay đổi thời gian, không gian nghệ thuật cũng mở ra nhiều chiều, nhờ có hồi tưởng, ước mơ...
Trên đây chỉ là mấy vấn đề cơ bản trong thi pháp Thạch Lam. Cần phải có sự đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ hơn những vấn đề mà Thạch Lam đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Ví dụ, vấn đề về tính chân thực, về nghệ thuật kịp thời và vĩnh cửu, về tính cách nhân vật, về vai trò của thế giới quan và tài năng trong quá trình sáng tạo, quan niệm về thể loại tiểu thuyết... đã được ông trình bày trong tiểu luận Theo dòng cho đến nay đã hơn năm mươi năm mà vẫn còn mới mẻ, có giá trị khám phá.
Với khoảng thời gian hơn năm năm đi với văn chương, Thạch Lam đã để lại ba tập truyện ngắn, một tiểu thuyết, một tập bút ký, một tập tiểu luận, đã kịp thời tạo ra một dòng mới trong văn học sau này, với cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người. Điều đó làm cho Thạch Lam càng gần gũi với đời sống, với độc giả ngày nay.
Huế, tháng 6 năm 1992
P.P.P.
(TCSH51/09&10-1992)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.