Mấy vấn đề về thi pháp truyện ngắn Thạch Lam

09:16 19/01/2022

PHẠM PHÚ PHONG

Thi pháp là mỹ học của nghệ thuật ngôn từ, hay nói đúng hơn là cái đẹp của nghệ thuật văn chương. Nghĩa là toàn bộ những yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật của một hiện tượng văn học.

Ảnh: vansudia.net

Với Thạch Lam, đây không phải là lần đầu tiên nghiên cứu các yếu tố cấu thành hệ thống nghệ thuật trong sáng tác của ông. Theo một thống kê không đầy đủ, ít nhất cũng đã có ba mươi công trình với các qui mô khác nhau đã nghiên cứu về đời văn Thạch Lam, trong đó ít nhiều đã đề cập đến các cấu trúc nghệ thuật, các yếu tố hợp thành ngôn từ, về thời gian, không gian, nhân vật, kể truyện, bình luận, ngoại đề, đối thoại, mở đầu, dẫn dắt, kết thúc... Nhưng để có một cái nhìn đầy đủ về hệ thống nghệ thuật với tư cách là một chỉnh thể hình thức mang tính nội dung, buộc phải tìm đến lý thuyết thi pháp học.

Cũng chính vì lẽ đó và đồng thời để tránh một con đường đi vòng đã chi chít những dấu chân, xin phép tự giới hạn trong phạm vi truyện ngắn và gom lại thành mấy vấn đề như sau:

1. Với một nhận thức thẩm mĩ sáng rõ, Thạch Lam đã xác định "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lõi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng trang 294). Đó là quan niệm nghệ thuật hết sức đúng đắn và mới mẻ, chạm đến vấn đề căn cốt của sáng tạo, có giá trị lâu bền, tạo cho dòng mực trong ngòi bút của Thạch Lam chảy theo một lối rẽ khác với những người cùng nhóm trong Văn đoàn Tự Lực, nhưng đồng thời cũng không giống với quan niệm của những nhà hiện thực phê phán, bởi lẽ, điểm xuất phát đến với văn chương của ông từ một phía khác. Thạch Lam cũng đặt ra tiêu chí đầu tiên cho tác phẩm là sự chân thực, là phải "tự cày bừa lấy trang sách nói về người nhà quê trong văn chương", nhưng ông lấy thế giới hiện thực chung quanh làm nền tảng, ông đòi hỏi "phải biết quan sát bè trong và biết đi sâu vào “bí mật những tâm hồn ấy" (trang 300). Nhưng nếu chỉ có thế thì Thạch Lam đã tự xếp vào hàng những nhà hiện thực phê phán và đứng gần các cây bút phân tích tâm lý sắc sảo như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thạch Lam cho rằng: Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết" (trang 281) và "qua tâm hồn ta, chúng ta có thể đoán biết được tâm hồn mọi người. Và chỉ khi nào chúng ta hiểu biết được những trạng thái tâm lý của mình một cách sâu sắc, chúng ta mới hiểu biết được trạng thái tâm lý người ngoài". Nghĩa là cái hiện thực mà nhà văn quan tâm, đặt lên hàng đầu, là hiện thực tâm trạng, khai thác tận cùng những cảm xúc, quan niệm của tâm hồn mình để khám phá thế giới. Hay nói đúng hơn, cảm xúc tâm trạng của nhà văn bao giò cũng xuất phát từ thế giới hiện thực, nhưng được biểu hiện qua bút pháp lãng mạn, làm cho Thạch Lam vừa gần gũi với các nhà hiện thực, vừa mang vóc dáng lãng mạn, trữ tình.

Từ quan niệm hiện thực vận động trong con người đã đưa đến một thế giới đông đảo, phong phú, đủ "thập loại chúng sinh" về đứng chật trong thế giới tâm hồn của Thạch Lam. Xin đừng vội tin vào "tuyên ngôn" của các nhà văn. Khi Thạch Lam phác thảo về Chân dung người nhà quê trong văn chương như tựa đề một tiểu luận viết vào năm 1939 của ông, chúng ta chớ vội tin là toàn bộ sáng tác của ông viết về những người lao khổ. Thế giới nghệ thuật của ông là thế giới của những người nghèo khó cam chịu như mẹ Lê (Nhà mẹ Lê), chị Sen (Đứa con); những người ý thức thân phận như Tâm (Cô hàng xén); Lan và Huệ (Ti ba mươi); Liên (Một đời người); Dung (Hai ln chết), những người chân quê ph huyện như vợ chồng ông bà Cả và cô Lan (Tình xưa), người bà và cô Nga (Dưới bóng hoàng lan); Liên và An (Hai đứa trẻ)... nhưng ngòi bút của ông còn có thiện cảm cả với những người giàu có, những người mà số phận đã ban cho một đời sống sung túc như gia đình của chị em Lam, Sơn (Gió lạnh đầu mùa), Thanh (Một cơn giận), tấm lòng xót thương vì một tiếng chim kêu của những người có mức sống trung lưu (Tiếng chim kêu), thậm chí thương cả những người đầm Tây "những người Pháp thật, những người chưa bị cái hoàn cảnh bên này làm xấu đi (...) lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ và cúi mình trên những đau khổ của người ngoài. Và tôi thấy cái ý muốn được thân thiết hiểu biết những người đàn bà ấy" (Người đầm, trang 98). Có thể nói rằng con người trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, cả những người nghèo khổ đến kẻ giàu sang, cả những người đói vật vã vì cái ăn, cái mặc đến những người may mắn trong đời đều có tâm trạng buồn thương cam chịu v thân phận làm người - những con người có độ dư của những phẩm chất làm người, như chính cái nhìn yêu thương m áp đối với con người của tác giả, khác với con người làm trò, con người đáng rơi phẩm chất làm người trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan; khác với con người oan trái nhưng không bị tha hóa bởi hoàn cảnh trong sáng tác của Ngô Tất Tố; khác với con người bị vật hóa, con người bán dần sự sống của chính bản thân mình, lê tấm thân vật vã áo cơm trong sáng tác của Nam Cao; khác với con ngườinghĩa lý trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng; đồng thời cũng khác với tư duy của những nhà lãng mạn, với con người giao hòa nhân ái của Xuân Diệu; con người hành động cải tạo xã hội vì mục tiêu cá nhân với nhiều ảo tưởng xa vời của Nhất Linh, Khái Hưng... Tâm hồn Thạch Lam là đối tượng cho nhà văn khám phá và miêu tả. Đó là một khối thủy tinh trong suốt, mỏng mảnh, dễ vỡ, không quen va chạm với những xung đột, mâu thuẫn khắc nghiệt, ngay cả lúc ông tả Một cơn giận hoặc Hai ln chết mà chẳng thấy có gì đáng giận hoặc chưa thấy cái chết đâu cả, nhưng mỗi khi khép lại những trang cuối truyện, tâm hồn ta cứ phảng phất một nỗi buồn thương nhẹ nhàng nhưng day dứt, sâu nặng khó nguôi về thân phận con người.

2. Một quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng là tiền đề của một thi pháp nghệ thuật tương ứng. Thạch Lam thường kể chuyện theo tuần tự phát triển của thời gian, khó tìm thấy những yếu tố kỹ thuật mang tính chất "làm văn". Đọc lại những hồi ký Những k niệm chia bùi xẻ ngọt cùng Thạch Lam của Đinh Hùng, Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu Thạch Lam thm âm của Hoàng Điệp Thứ Lan (1965); Người em thứ sáu của Nguyễn Thị Thế; Tìm kiếm Thạch Lam của Thế Uyên; Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng của Nguyễn Tường Giang... chúng ta thấy hầu hết những truyện của Thạch Lam đều là những chuyện có thật, chuyện trong gia đình, trong bạn bè được ông kể lại bằng một lối kể bình thường, chân chất và hầu hết đều dưới điểm nhìn của nhân vật tôi - vừa là nhân vật, vừa là người trần thật, vừa là tác giả. Do đó, những ý kiến cho rằng văn chương của Tự Lực văn đoàn nói chung, của Thạch Lam nói riêng đều là tình thương theo kiểu ban ơn của những người giàu có, dư dật cúi xuống những mảnh đời nghèo khổ ngày nay đã tỏ ra thiếu cơ sở, vì gia đình của anh em nhà Nguyễn Tường đã từng nghèo khó sa sút. Thạch Lam và người chị thứ năm đã từng dọn quán hàng xén đợi chuyến tàu đêm ở phố huyện Cẩm Giàng. Với cái nhìn hiện thực sinh động, Thạch Lam đã tìm ra trong những chuyện thường ngày tưởng như không có chuyện ấy những điều cần kể, và khi đã kể thì lập tức thành chuyện. Chuyện một đêm mưa gió hai anh em nằm nghe tiếng chim kêu, thương con chim muốn mở cửa đưa vào nhưng ai cũng ngại rét, sáng ngủ dậy hóa ra không phải chim mà tiếng hai cây tre chạm nhau (Tiếng chim kêu). Chuyện một lần đi xem phim, thấy một người đầm mua vé hạng nhì, đoán chắc người đầm cũng thuộc loại nghèo khó, tưởng ra "cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái dãy nhà thờ cao lên trên rặng cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh bên cái suối" (Người đầm); Chuyện đi tàu gặp một người đồng hành đang đọc chính cuốn sách của mình viết (Cuốn sách bỏ quên); Chuyện đi đường gặp một người hành khách từng đi lính cho Tây (Người lính cũ); Chuyện có lần định lấy cắp tiền của bạn (Sợi tóc); Có truyện suốt từ đầu đến cuối là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật (Người bạn trẻ)... Nghệ thuật dẫn chuyện của Thạch Lam là sử dụng mạch phát triển ngầm của tâm lý, dòng chảy của tiềm thức, với những khoảnh khắc cô đơn trong thế giới mà đôi khi con người không có ngôn ngữ diễn tả hết tâm trạng, phải dùng đến "ngôn ngữ" của cử chỉ, nét mặt, ánh nhìn, bước đi, dáng đứng... Không thể tìm thấy một cơ sở chắc chắn nào để phủ nhận cái nguyên lý coi văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng cũng không thể không công nhận văn học đôi khi là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ chiếm lĩnh tinh thần của con người. Bởi lẽ, bản chất văn học không chỉ phản ánh hiện thực mà còn đề ra những ý thức mới, những tư tưởng nghệ thuật, mà trạng thái tinh thần, trạng thái tâm lý không phải bao giờ cũng được ý thức một cách đầy đủ. Muốn tiếp cận thế giới hình tượng của Macxel Prút, Kapka, Hemingway, của Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Thạch Lam, hoặc sau này, của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... người đọc hóa thân vào tâm trạng nhân vật, cũng chui xuống những tầng ngầm của thế giới chưa được ý thức ấy. Từ tầng ngầm của dòng chảy ý thức mới nhận thức được sự chi phối của hệ thống các quan niệm, sự hằn nổi hình tượng tác giả trong các hình tượng văn học, mối liên hệ mật thiết giữa hình tượng không gian và thời gian, các yếu tố của thi pháp cấu trúc...

Điều quan trọng đối với Thạch Lam, là sự nhất quán trong giọng điệu và cảm xúc. Niềm yêu thương, trân trọng đối với con người của ông đã tạo cho giọng văn ông một hơi thở ấm áp, ngay cả khi kể về sự oan trái cay nghiệt của cuộc đời Thạch Lam cũng luôn giữ con người đứng bên này bờ vực của sự yêu thương cam chịu (Đói, Trong bóng ti buổi chiu, Ti ba mươi); hoặc khi đẩy nhân vật vào vực thẳm của nỗi đắng cay chua xót, ông cũng biết dừng lại, lửng lơ, mở ra những tuyến những đường cho người đọc hình dung, chứ không chỉ ra hết mọi điều, mọi lẽ (Nhà mẹ Lê, Một cơn giận, Người bạn cũ, Hai ln chết). Còn gì buồn hơn cho thân phận con người, khi vì cái đói của đàn con mà người mẹ phải liều đi vay, bị nhà giàu xua chó cắn, về nhà lên cơn mê sảng rồi chết. Nhưng còn đàn con kia chắc chắn cũng sẽ chết, không vì chó cắn mà vì cái đói đang còn đeo đuổi mãi. Người ta gom góp nhau mua cỗ áo quan chôn người mẹ xấu số! "khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ của bác Lê ngồi ở vỉa hè, con Tí đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi một lát sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa. Và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ đeo đuổi mãi không biết bao giờ mới dứt" (Nhà mẹ Lê, trang 37).

Thạch Lam biết đặt những câu, những từ đúng vị trí của nó và buộc nó hắt sáng lên vấn đề, gợi lên một cách rõ ràng những hình tượng, những trạng thái cảm xúc của tâm hồn: "Có những ngày mà tự nhiên, không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu, và hay gắt gỏng và không muốn làm việc gì". Đó là khởi đầu cho cái giận vô cớ đưa đến sự ân hận, sám hối trước nỗi đau của con người" (Một cơn giận); tình yêu đầu đời của chàng trai tỉnh và cô gái quê nơi chàng trọ học "có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây khiến chàng vươn phải" (Tình xưa), hoặc: "Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt sủng, mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió ngát" (Dưới bóng hoàng lan). Có những trang văn đẹp, gợi nhớ đến không khí Tôi đi học của Thanh Tịnh: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều" (Hai đứa trẻ).

3. Hình tượng không gian - thời gian gắn quyện với nhau để nhằm gợi sâu tâm trạng, không gian và thời gian không thể chia cắt ra được. Trong bóng ti buổi chiều, Tối ba mươi, nhà mẹ Lê gợi cho ta hình dung ra bóng tối đang đổ ập về phía số phận những con người bé nhỏ đang hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Cái nhìn lo âu của Thạch Lam luôn xoáy sâu vào những khía cạnh còn khuất tất của hiện thực. Không gian sinh hoạt của đời sống phố huyện tù đọng, giam hãm con người. Bóng tối trải dài trên quảng đường mấp mô chân trâu, trên đường phố huyện le lói ánh đèn dầu, khoảng tối đêm ba mươi trong căn buồng nhà xăm, nơi cô gái điếm đang đón giao thừa hoặc khoảng tối "trong dãy nhà lụp xụp, thấp lè tè, xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy, sống một đời khốn nạn những con người gầy gò rách rưới" (trang 46). Ngay cả khi không gian nghệ thuật được Thạch Lam hé mở chan hòa ánh nắng trong Dưới bóng hoàng lan, cũng chưa có một điều gì chắc chắn sẽ đem lại hạnh phúc cho con người, ngoài những lời hứa hẹn. Có khi, không gian nghệ thuật là một không gian lép. Người viết lướt qua không gian sinh hoạt, không gian hiện thực để vươn đến không gian suy tưởng, cô đúc, vo tròn lại, nén lại trong phạm vi một chiếc dạ dày, như không gian của Sinh (Đói), trong một khoang xe như không gian của Thành (Cuốn sách b quên), trong rạp hát như không gian của Người đm... Từ một điểm của tâm tưởng, hay là dựa trên một điểm của tâm tưởng, người viết có thể liên tưởng về không gian quá khứ, về không gian song hành hiện tại, hoặc hướng về mơ ước tương lai không lấy gì làm chắc chắn để nói lên sự tồn tại chông chênh của thân phận con người.

Cái trục không gian - thời gian nghệ thuật của Thạch Lam là nơi tồn tại một thế giới khốn cùng, quanh quẩn, ngột ngạt, từng mảnh đời vụn vỡ, có ý nghĩa khái quát, trong đó hằn sâu lên sự vấn tâm - cũng là lời đối thoại với cuộc đời của tác phẩm - rằng, liệu con người có đủ sức vùng vẫy thoát khỏi tình trạng khốn cùng của cái không gian chật hẹp ấy không?

Trong sáng tác của Thạch Lam không gian cá nhân bị dồn nén đến mức ngột ngạt, làm xuất hiện sự đơn của nhân vật, và khi nhân vật tự đối diện với mình làm bộc lộ sự suy tưởng. Dưới bóng tre làng đen dày, trong những căn nhà "ổ chuột" tối tăm, nhân vật của Thạch Lam miên man trong những suy nghĩ, độc thoại nội tâm, sự day đứt âm thầm và chua xót về đời mình: "Tâm dấn bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt tối tăm và dày đặc; Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối” (Cô hàng xén, trang 146). Đối với mẹ Lê, cho đến cuối đời, trước khi chết trong cái đói vật vã của cả nhà và sự cấu xé của con chó nhà giàu, mẹ tổng kết lại đời mình: "Bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi" (Nhà mẹ Lê, trang 36). Nhân vật Sinh vật vã trên chiếc phản gỗ, trong căn nhà tối tăm, chống lại một cách bất lực với cái đói, đến nỗi "chàng chỉ muốn chết ngay lúc bây giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai" (Đói, trang 64).

Nhớ lại, hồi tưng lại được Thạch Lam sử dụng như một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Thời gian quá khứ được hồi tưởng lại, bao giờ cũng được huyền thoại hóa với những ngọt ngào ấm áp. Nhưng với Thạch Lam, thời gian như là người bạn đường của đau khổ, nhớ lại, tưởng lại chỉ làm tăng thêm nỗi đau khổ trong hiện tại (Nhà mẹ Lê, Cô hàng xén, Một đời người, Người lính cũ, Người bạn cũ...). Thạch Lam sử dụng thời gian quá khứ đủ để diễn tả tâm trạng, còn thời gian tương lai chỉ là một giả định, một khoảng mờ tối, không được hình dung rõ ràng. Những mơ ước đời thường của con người hầu như ít diễn ra, bởi vì con người lúc nào cũng loay hoay với cái ăn, cái mặc, chống chọi với đói rét trước mắt. Thời gian hiện tại là những sinh hoạt thường nhật, là thời gian hiện thực được miêu tả song hành với thời gian tâm trạng. Đối với Liên (Một cuộc đời), quãng thời gian lấy chồng, sống dưới sự khắc nghiệt của người chồng vũ phu và mẹ chồng ác nghiệt là thời gian nặng nề, đau khổ cả đời người, mới "bảy tám năm qua mà Liên tưởng hình như lâu lắm, hình như đã hết nửa đời người" (trang 72). Sự xuất hiện thường xuyên yếu tố lãng quên về khái niệm thời gian thường nhật, bởi sự tồn tại và chi phối của thời gian tâm tưởng "không nhớ là mấy tháng sau, anh Bào đến chơi nhà tôi" (Người bạn trẻ, trang 55), "Nàng không nhớ rõ gì cả. Ra đến sông lúc nào cũng không biết” (Hai lần chết, trang 89).

Thạch Lam là một tác giả sử dụng không gian và thời gian đến mức nhuần nhuyễn trong quá trình sáng tạo. Thời gian và không gian chuyển động, thay đổi, tính cách nhân vật cũng thay đổi theo. Cùng với thay đổi thời gian, không gian nghệ thuật cũng mở ra nhiều chiều, nhờ có hồi tưởng, ước mơ...

Trên đây chỉ là mấy vấn đề cơ bản trong thi pháp Thạch Lam. Cần phải có sự đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ hơn những vấn đề mà Thạch Lam đề ra cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Ví dụ, vấn đề về tính chân thực, về nghệ thuật kịp thời và vĩnh cửu, về tính cách nhân vật, về vai trò của thế giới quan và tài năng trong quá trình sáng tạo, quan niệm về thể loại tiểu thuyết... đã được ông trình bày trong tiểu luận Theo dòng cho đến nay đã hơn năm mươi năm mà vẫn còn mới mẻ, có giá trị khám phá.

Với khoảng thời gian hơn năm năm đi với văn chương, Thạch Lam đã để lại ba tập truyện ngắn, một tiểu thuyết, một tập bút ký, một tập tiểu luận, đã kịp thời tạo ra một dòng mới trong văn học sau này, với cái nhìn yêu thương ấm áp đối với con người. Điều đó làm cho Thạch Lam càng gần gũi với đời sống, với độc giả ngày nay.

Huế, tháng 6 năm 1992
P.P.P.
(TCSH51/09&10-1992)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.