Lung linh Tả Trạch

09:42 17/11/2009
MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...

Sông Hương - Ảnh: covathue.com

Mưa. Lũ từ Nam Đông- A Lưới đổ về làm cho hành trình lên Tả Trạch của Văn tạm hoãn.

Từ lầu 2 nhà khách nhìn ra sông Hương, nước lũ dềnh lên ngầu đỏ, củi rác trôi phăng phăng về phía biển và những con đò mỏng manh biết thân biết phận đành nép sát vào bờ. Lạ cho cái thứ mưa Huế, một thứ mưa dày tâm trạng! Nó không ào ạt như mưa Sài Gòn, cũng không dầm dề như mưa Hà Nội. Nó cứ tầm tầm, tong tả, triền miên như không biết tạnh, buồn nẫu ruột. Con đường Lê Lợi vắng teo, thỉnh thoảng lắm mới có một chiếc Honda vội vã vút qua hay một cái xích lô ì ạch ngược lên phía ga mà cả người điều khiển xe, cả khách đi xe đều tơi nón kín bưng...

Với Huế, Văn là khách lạ. Trước đây đôi ba lần Văn có dịp qua Huế nhưng xe chỉ lướt qua để còn vội vã vào Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang nên cái thành phố cổ kính thơ mộng này đối với Văn vẫn còn là một ẩn số. Hồi còn học đại học, Văn từng có chút tơ vương với một cô giáo rất trẻ người Huế, quanh năm chỉ mặc áo tím và trong khi đối thoại với sinh viên, cô vẫn “ dạ!” rất dễ thương. Ngay từ thưở ấy hồn vía Văn  cứ ngơ ngác mỗi lần nghe một khúc ca dịu dàng về Huế với chất giọng Huế “ thứ thiệt” của ca sỹ H.T:

“Đã bao lần đến với Huế mộng mơ
  Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt...”

Chương trình của Văn trong chuyến đi này, ngoài việc tiến hành nghiên cứu các đặc trưng địa hình, địa chất, thủy văn trên sông Tả Trạch ngõ hầu phác thảo nên một dự án xây dựng trên con sông này một hồ chứa nước lớn nhằm mục đích tưới cho hàng vạn hecta ở bờ Bắc, bờ Nam sông Hương. Ngăn lũ, bảo vệ thành phố Huế cùng các cơ sở kinh tế, quốc phòng và các lăng tẩm phía hạ lưu, đẩy mặn về phía biển để duy trì cho thành phố Huế nguồn nước ngọt được đảm bảo về trữ lượng và chất lượng.

Văn còn muốn nhân dịp này tiến hành một cuộc du lịch lữ hành trên địa bàn thành phố để biết thế nào là  “ăn Âm Phủ, ngủ nhà đò”. Chỉ tiếc, Văn đi chỉ một mình. Những thành viên khác trong nhóm nghiên cứu sẽ vào sau... Báo hại cho Văn, anh lại đi nhằm đúng cữ mưa. Anh cảm thấy thực sự tù túng, sự trì trệ làm cho đầu óc Văn lúc nào cũng căng như dây đàn. Như con thú bị nhốt trong cũi, Văn cứ đứng vịn tay vào song cửa sổ nhà khách nhìn ra màn mưa đang giăng mờ sông Hương mà ngao ngán buồn...

Sau lũ sông Hương lại trở lại vẻ đẹp thuần khiết và dịu dàng vốn có của nó. Nước trong vắt cho nhìn thấu lớp trầm tích cuội sỏi đáy sông. Loáng thoáng có những chiếc thuyền khai thác cát sỏi khẳm tới mép, tưởng như chỉ một sự chòng chành nhỏ cũng đủ bị nước nhấn chìm. Những chiếc đò thon nhỏ lắp máy đuôi tôm xuôi ngược trên sông tấp nập và vui như đi chợ.

Xuồng ngược sông Hương. Từ Long Thọ đổ lên, thôn xóm làng mạc hai bên bờ hiện ra trước mắt Văn một màu xanh ngút ngát, một cảnh quan thôn dã đẹp đến ngỡ ngàng làm cho một kẻ từng có nhiều cuộc phiêu du như Văn vẫn thấy bồi hồi.

Đến cửa sông Hữu Trạch, chiếc bo bo có phần đi chậm lại vì từ đây đổ lên, độ dốc dòng chảy đã lớn hơn đoạn hạ lưu, lưu thượng thuyền đò trên sông cũng thưa dần. Đồi núi đã ra sát sông làm lòng sông hẹp lại và vắng vẻ, hoang dã.

Văn bỗng thèm nghe một giọng hò, cái điệu hò Huế mênh mang, thăm thẳm và day dứt một nỗi buồn thiên cổ như đâu đó từ một miền ký ức xa xôi vọng về:

“ ... Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào?!...”

Ngược lên Tả Trạch trời đã quá trưa. Phần ngày còn lại Văn và đoàn công tác phải làm việc với chính quyền và Đảng ủy xã D.H, nơi có vị trí dành cho một tuyến đập lớn sẽ ngăn sông Tả Trạch tạo nên một hồ chứa có dung tích gần một tỷ mét khối nước. Những ngày nằm lại ở D.H, Văn có nhiệm vụ nghiên cứu điều kiện địa hình, địa mạo, địa chất, thủy văn trên vị trí tuyến đập dự kiến trong tương lai. Nhóm nhà báo của tỉnh, sau khi đi điền dã, được Văn giới thiệu khái quát về nội dung dự án: các triển vọng xây dựng như điều kiện nền móng, lưu lượng dòng chảy, khả năng vật liệu xây dựng, chiều cao đập, trữ lượng nước chứa trong hồ, khả năng ngập lụt lòng hồ, điều kiện di dân khỏi vùng ngập và bán ngập, những khả năng thay đổi khí hậu, môi trường môi sinh, cảnh quan địa lý và triển vọng đầu tư khai thác hồ chứa vào các mục đích nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, phát điện. Văn nhấn mạnh: việc phát điện là một ý tưởng mới phát sinh bởi vì điều kiện lưu lượng và trữ lượng nước trong bước đầu  tính toán có thể cho phép kết hợp sản xuất được 7. 000- 10. 000 kw điện, nếu chưa hòa được vào lưới điện quốc gia thì chí ít với sản lượng điện này cũng cho phép phát triển các ngành công nghiệp địa phương và nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa của các dân tộc ít người thuộc các huyện Nam Đông, A Lưới vốn có nhiều đóng góp và hy sinh lớn lao trong kháng chiến. Thiết nghĩ cũng là cách đền đáp, bù đắp những thiệt thòi cho bà con Cà Tu, Pa kô đang còn rách rưới, thất học và bữa cơm thường nhật còn độn sắn, độn ngô mà vẫn thiếu đói triền miên.

Văn phòng ủy ban xã bố trí cho Văn ở trọ trong nhà một thương binh cụt chân nghèo túng đến nỗi vợ phải ôm con phiêu dạt về Huế. Hàng ngày anh lộc cộc chống nạng xuống con đò nát với một tay lưới vá víu kiếm con cá, sống lần hồi qua ngày. Thấy chủ nhà rách quá Văn biếu anh ta một bộ đồ bảo hộ lao động còn mới khiến người thương binh ứa nước mắt. Có hôm, chiều về anh ta cứ ép Văn ngồi uống rượu:

- Thầy Văn! bữa ni tui để lại con cá gáy mời thấy uống rượu cho vui. Thiệt tình tôi có quý thầy tui mới mời, thầy đừng từ chối, tui buồn.

Về chuyện ăn uống, ngay từ đầu, ông chủ tịch xã đã gãi đầu:

- Răng hè? ở xã ni y có quán xá chi mô. Nhà tui lại ở bên tê sông, đi lại không tiện. Thôi được, thong thả để tui qua nhờ o Đoan xem ra răng.

Thế là ông ta gửi gắm Văn cho một người đàn bà trẻ gần kề nhà anh thương binh cụt chân. Đầu tiên Văn cũng thấy khó chịu: chẳng lẽ mình lại là một thứ gánh nặng cho xã đến thế ư? Nhưng dần dần anh hiểu ra rằng quả thật ở cái xóm đầu sông ngọn nguồn này từ que diêm, gói mì đều phải về Huế lấy lên, dân tình lại đang kỳ giáp hạt, Văn mới thấy được cái khó của địa phương.

Người đàn bà trẻ phục vụ cơm nước cho Văn hơi có vẻ lam lũ nhưng xem ra chị ta là người khéo léo và ý tứ đến khép nép. Bộ đồ lụa tím chị ta đang mặc tuy cũ bạc có mấy miếng vá ở vai và cùi tay nhưng phẳng phiu, sạch sẽ; dáng người thon thả gọn ghẽ; gương mặt thanh tú dễ coi nhưng đượm một chút buồn gì đó nơi cặp mắt đen dài cứ luôn nhìn xuống. Và cái tiếng “dạ!” nhỏ nhẹ trong giao tiếp cứ gợi cho Văn về một cô gái Huế từng làm Văn ngơ ngác một thời.

Bữa đầu chị ta khép nép bê mâm cơm sang nhà anh thương binh mời Văn:

- Dạ! em mời ông kỹ sư dùng cơm.

Rồi chị ta lễ phép đứng chờ Văn ăn xong để dọn kèm thêm một câu:

- Dạ!cơm em nấu có gì không vừa ý xin ông kỹ sư cứ dạy.

- Không! chị nấu khéo và ngon lắm. Nhưng chị Đoan này, chị cứ coi tôi như người nhà, gọi tôi là Văn thôi, đừng kèm kỹ sư sãi gì cho thêm khách sáo và để cho tiện, từ mai tôi sẽ sang nhà ăn cơm, chị khỏi phải bê qua bê lại chị thấy có được không?

- Dạ em chỉ sợ nhà em nhớp nhúa làm ông kỹ sư ăn mất ngon. Vả lại thằng nhỏ nhà em hắn lộn xộn lắm...

- Không sao tôi rất thích trẻ con.

- Dạ!

Căn nhà nhỏ lợp tôn Mỹ của hai mẹ con Đoan kín đáo nép sau hàng rào trà tàu thấp, xén gọn. Trong sân có mấy nọc hồ tiêu, vài ba cây mít mà cây nào cũng lúc lỉu quả. Thảo  nào, trên mâm cơm thay vì các loại rau, bữa nào cũng có các món được chế biến từ mít: mít non nấu canh, mít kho cá, mít luộc trộn vừng...khiến Văn thấy lạ miệng và quả thật cũng ngon nữa. Có điều, món nào cũng cay phỏng lưỡi.

Thằng con của Đoan gọi là cu Tý, một thằng bé năm sáu tuổi gì đó, mặt mũi sáng sủa, lễ phép, khi chào ai cũng khoanh tay trước ngực, cúi gập người: “Con chào ông! con chào mệ! con chào bác!...” và ở nó cũng có một vẻ nhút nhát, khép nép, tội tội thế nào ấy khiến Văn luôn động lòng trắc ẩn. Có lần Văn ôm thằng cu Tý vào lòng vuốt ve nhưng chợt Đoan từ bếp lên thấy vậy liền mắng con:

- Cu Tý đi chơi, không được phá bác như rứa!

Lần khác, sau bữa cơm, Văn kéo thằng cu Tý lại hỏi:

- Bố cu Tý đi đâu mà lâu nay bác không thấy về nhà?

Thằng bé ngơ ngác khiến Đoan phải phiên dịch:

- Bác hỏi ba cu Tý đi mô?

- Dạ! ba vượt biên rồi!

Văn vội quay sang Đoan:

- Xin lỗi Đoan, tôi không biết, xin lỗi!

- Dạ! không có chi mô!

Đôi mắt đen lại cụp xuống và người đàn bà trẻ lại quay quả bê mâm xuống bếp.

Văn vừa ngồi nhấm nháp cốc nước chè xanh nóng vừa tò mò khảo sát gian nhà của Đoan. Trong mấy gian nhà tuềnh toàng trống trải của Đoan, ngoài bộ bàn ghế gỗ gụ và cái tủ thờ kiểu Huế chạm trổ cầu kỳ, có lẽ chỉ còn cái kệ sách kê sát tường và nhiều cuốn sách dầy được sắp xếp ngay ngắn là vật duy nhất hấp dẫn Văn. Tiện tay Văn rút một quyển bất kỳ trên kệ sách, nhằm trúng quyển MỘT ANH HÙNG THỜI ĐẠI của Lec- man- tốp. Sau bìa 1 là dòng chữ mềm mại: “ Thế là người đã đi rồi! Huế một chiều cô đơn. Tôn Nữ Thục Đoan”. Như một phản xạ vô thức, Văn tiếp tục lặng lẽ khảo sát kệ sách của Đoan: nào là thơ Nguyên Sa, thơ Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, tiểu thuyết DẤU CHÂN NGƯỜI LÍNH của Nguyễn Minh Châu, YÊU, GHEN, CHẾT của Chu Tử, THỜI THƠ ẤU của M. Gooc- ki, ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ của Hê- minh- uê, TIẾNG GỌI HOANG DÃ của J. Lơnđơn... và cả KINH NHẬT TỤNG nữa.

Thì ra, sau cái vỏ lam lũ nhẫn nhục của Đoan đang là một thế giới nội tâm phong phú chứa cả sự trở trăn, cả đau đớn và cả mộng mơ, khát vọng. Người đàn bà này ít ra cũng có một tuổi trẻ vàng son và được học hành tử tế. Tôn Nữ Thục Đoan có nghĩa là cô ấy thuộc dòng Tôn Thất. Tôn Nữ... thế mà bây giờ chịu sống lầm lũi âm thầm, đơn chiếc ở một góc núi xa sâu này. Buồn thật! Biết đâu, nếu không vướng thằng cu Tý nàng đã chẳng xuống tóc quy y ở một ngôi chùa nào đó. Mà xứ Huế này chỗ nào chẳng có chùa!

Đêm ấy, Văn cứ thao thức, xót xa cho một số phận và trong lúc thiếp đi hồi gần sáng Văn mơ thấy mình cắp tay mẹ con Đoan đi dạo bên hồ Hoàn Kiếm. Đoan nép vào vai Văn, ngước mắt cười rạng rỡ còn thằng cu Tý cứ chỉ vào tiệm Bốn Mùa líu lo: “Ba ơi ba! con ăn cà- lem”...

Thời gian khảo sát thực địa vùng tuyến đập mất hơn một tuần, cho phép Văn lạc quan về điều kiện nền móng công trình. Có điều bề rộng thung lũng hơi lớn, đòi hỏi một khối lượng đào đắp phải vài triệu mét khối. Bù lại, nguồn vật liệu đắp lại dồi dào, phong phú, chất lượng tốt. Để có một báo cáo tiền khả thi hoàn chỉnh, bắt buộc Văn phải ngược sông Tả Trạch lên Nam Đông nhằm đánh giá khả năng giữ nước, mất nước của hồ, giới hạn ngập lụt, điều kiện dân sinh kinh tế của vùng ngập... Ủy ban xã điều cho Văn một chiếc thuyền. Bố con ông Thuộc vừa là chủ thuyền vừa là người bảo vệ.

Thời gian 10 ngày ở D.H vừa kịp cho Văn quen hơi bén tiếng khiến cho lúc chia tay không thể tránh được sự lưu luyến đến mềm lòng. Anh thương binh nắm lấy tay Văn lắc lắc:

- Thầy tốt quá. Nếu tui còn đủ hai chân tui sẽ đưa thầy lên Nam Đông. Vùng ni tui thuộc lắm. Tui bị vướng miểng mất chân ở Khe Tre đó thầy! Trên nớ tui còn nhiều bạn cùng đơn vị. Bọn hắn đang làm ở nông trường. Lên Nam Đông, thầy nói tên tui ai cũng biết. Mà thầy đi rứa khi mô thầy quay lại? Liệu miềng có đủ tiền để xây hồ Tả Trạch không thầy? Thôi thầy đi mạnh giỏi. Này, bớ lão Thuộc! nhớ mang theo tay lưới kiếm con cá cho thầy kỹ sư đây uống rượu. Cá ở sông Hai Nhánh béo tuyệt vời!

Văn bế bổng thằng cu Tý lên khẽ thơm lên dôi má bầu bĩnh của nó mà lòng thấy xao xuyến như chia tay với chính người ruột thịt.

Còn Đoan, vẫn dáng vẻ rụt rè, khép nép, bữa nay nàng mặc bộ đồ soie tím mới, tóc bới lửng sau gáy và hình như nàng có thoa nhẹ chút phấn nhưng gương mặt buồn không giấu diếm, trông tội lỗi và “Huế” vô cùng.

- Thôi anh Văn đi kẻo trễ. Khi mô quay lại Tả Trạch nhớ ghé lại với mạ con em.

- Nhất định tôi sẽ quay về Tả Trạch. Dự án này là một phần đời của tôi. Chỉ sợ em và cu Tý lại rời đi nơi khác, biết “mô” mà tìm?

- Anh khỏi lo, em sẽ cắm sào ở bến sông ni cho tới khi mở công trường Tả Trạch và các anh có đuổi mạ con em mới chịu đi. Bến sông ni cũng là một phần đời của mạ con em, anh nờ!...

Con thuyền nhỏ rời bến, khó nhọc vượt một ghềnh đá, nước xiết như muốn đẩy lui con thuyền về bến cũ, đẩy lui Văn về với hai tiếng “Anh nờ!” Một câu hò xa xưa lại hiện về ám ảnh Văn:

... “Đến đây là chỗ rẽ của lòng
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào!...”

Đêm ấy thuyền phải ngủ lại sông Hai Nhánh. Thung lũng hoang vu, không một bóng nhà dân, không một tiếng gà, tiếng chó. Bố con ông Thuộc ôm lên bờ hai tấm phên tre. Thằng con chặt cây đóng cọc giăng mùng, ông bố kiếm củi khô nhóm bếp. Bữa cơm chiều diễn ra dưới ánh trăng rừng và bập bùng ánh lửa. Vừa đói, mệt, vừa lạ miệng bởi món cá nướng chấm muối ớt Văn ăn rất ngon. Một chút rươụ đủ để Văn lâng lâng. Đêm rừng Huế mênh mông, huyền bí và hoang dã như một đêm trong truyện của J. Lơnđơn đánh thức trong Văn những đêm ngủ trên bãi bồi sông Đà khi anh cùng đoàn khảo sát đi nghiên cứu lòng hồ thủy điện từ Hòa Bình ngược lên Vạn Yên, Tà Bú, Quỳnh Nhai...

Tiếng thác đổ rì rào ở đầu sông Hai Nhánh lúc gần lúc xa như mơn man, như ru Văn vào giấc ngủ vậy mà giấc ngủ không đến. Văn nằm ngửa nặt nhìn trời. Bầu trời đầy sao như rắc vàng và thảng thốt những cánh chim đêm. Văn lại nghĩ đến lộ trình ban chiều khi anh phát hiện ra những dấu vết gãy địa chất để lý giải sự hình thành cấu tạo của sông Hai Nhánh. Từ những dấu vết đứt gãy này, anh tìm ra một mạch đá xâm nhập siêu bazic: một thứ đá đen lánh với những tinh thể miaca đen và amphibol lớn bằng đầu ngón tay. Nếu trữ lượng lớn và tiện đường giao thông, có thể đây sẽ là một mỏ đá quý hiếm dùng để trang trí nội thất hoặc xây dựng những công trình vĩnh cửu, ít nơi có. Đi kèm đứt gẫy địa chất, Văn còn tìm thấy ở bờ phải sông Hai Nhánh một mỏ nước khoáng nóng. Nước có nhiệt độ 50- 60 độ C, chứa nhiều sulfua, lưu lượng rất khá, ước chừng trên 5 lít/ giây, sẽ là một nguồn nước khoáng có tác dụng chữa bệnh, ít ra cũng có lợi cho các chứng bệnh ngoài da và tim mạch. Văn rủ bố con ông Thuộc cùng tắm. Sau cuộc tắm gội phả phê, ba người đều thấy bừng bừng ngây ngất như say. Ông Thuộc sôi nổi:

- Trời! Ông kỹ sư giỏi thiệt đó. Từ hồi mẹ sanh tới chừ, tui qua lại vùng ni mòn không biết mấy cặp bơi chèo mà đâu có biết xứ ni lại có mỏ nước quý ra ri. Ông tỉnh nỏ biết xài là uổng. Bữa mô tui kêu mấy đứa cháu lên cho chúng tắm cho đã. Đời người có mấy dịp phải không ông?...

Đến Nam Đông, vì phải vào huyện lấy số liệu về vùng kinh tế mới và được ủy ban huyện hứa sẽ cho xe đưa Văn về Huế nên Văn đành để cha con ông Thuộc xuôi về D.H . Trước khi rời bến Văn gửi ông Thuộc mang giúp mấy gói kẹo bánh cho cu Tý, một lọ Shampoo gội đầu và một bánh xà phòng Camay biếu Đoan, đồng thời biếu nốt ông Thuộc bộ đồ bảo hộ lao động và một ít tiền gọi là chút bồi dưỡng cho bố con ông sau mấy ngày thác ghềnh vất vả.

Khi thuyền bố con ông Thuộc nhổ sào xuôi và khuất sau khúc sông cong, Văn lại thấy một sự bâng khuâng hụt hẫng, thao thức nhớ cái bến vắng ở cuối dòng Tả Trạch, nhớ một người đàn bà trẻ, áo tím có cái nhìn rụt rè, nhút nhát và cái tiếng “ dạ!” rất Huế, rất dễ thương, nhớ anh thương binh cụt chân hay dành lại con cá béo để chiều về ép Văn uống rượu và nghe anh ta kể về trận dính miểng bom ở Khe Tre, kể về người vợ anh ta tuy phải bỏ anh, ôm con ra Huế nhưng thỉnh thoảng “ mụ” vẫn ra chờ Đông Ba tìm người làng gửi lên cho anh khi thì cây thuốc Mai, khi thì bịch mì tôm hoặc một túi bột giặt. Và cuối câu chuyện, vào lúc là đà, bao giờ anh ta cũng chốt lại một câu:

- Thầy Văn ạ! vợ tui là con gái Huế thứ thiệt đó. Sở dĩ mụ ôm con về Huế là vì tui nghèo quá, nghèo mạt rệp. Nhưng thầy coi, mụ bỏ đi mà mụ vẫn không quên tui, còn gửi cho tui thứ ni thứ khác, rứa là cách răng mụ cũng trở về...

Trở lại Huế, Văn phải dành ra mấy buổi để hoàn thành “Báo cáo tạm thời về tính khả thi của dự án trên sông Tả Trạch” để trình bày trước ban lãnh đạo địa phương.

Báo cáo của Văn có sức thuyết phục lớn. Đảng bộ địa phương nhất trí ủng hộ và đưa vào kế hoạch năm tới để trình Chính phủ. Văn cũng thẳng thắn đề nghị một khả năng mà anh cho là khó khăn lớn nhất, đó là qui mô công trình đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, nên so sánh với các dự án khác ( như dự án Hồ Truồi, cho dù dự án này còn mang tính chiết trung, tác dụng còn nhiều hạn chế). Như một nghệ sỹ rút hết lòng mình để tạo nên một câu thơ, một tiếng đàn, với một nguồn cảm hứng xuất thần, một sự say mê không mệt mỏi, Văn dồn hết mọi tinh túy kiến thức khoa học của mình vào những trang dự án. Trước mắt Văn luôn luôn hiển hiện một hồ nước lung linh trên sông Tả Trạch. Nó ám ảnh anh như một món nợ mà anh phải trả cho Huế.

Sông Tả Trạch còn đó, còn chảy triền miên trong tâm thức của Văn. Sóng nước Tả Trạch còn mãi khơi dậy trong Văn bao điều khát vọng trở trăn.

Thục Đoan ơi! Huế ơi! Nếu vì một lý do gì đó, hôm nay ta chưa xây được cái đập lớn trên sông Tả Trạch, thế kỷ này, chúng ta chưa kịp làm gì thì thế kỷ sau tất sẽ phải làm, con cháu chúng ta, con cháu thằng cu Tý sẽ làm và chắc chắn chúng sẽ làm đàng hoàng hơn, lớn hơn, đẹp hơn. Đó là chân lý và cũng là đạo lý.

Nhưng chẳng lẽ việc gì cũng đợi thế kỷ sau?!

Huế- Hà Nội 85- 98
M.H.T
(128/10-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀVọng đi vào núi. Tại sao phải đi vào núi thì Vọng mong manh biết, còn sẽ đi vào núi như thế nào thì anh không biết. Nắng của chiều ngần ngừ trên một đường mòn và đường mòn heo hút cỏ dại đến đây thì chia hai.

  • HÀ KHÁNH LINHGiáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân thường nói với các sinh viên của mình thuở còn ấu thơ bà tin những chuyện cổ tích là có thật, từ đó bà đã sống và hành động theo tinh thần cổ tích. Khi đã thành danh, bà thường ngẫm nghĩ đối chiếu mình với các nhân vật trong cổ tích. Nhiều người lấy làm ngạc nhiên khi thấy chuyện cổ tích đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của một con người như giáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân. Càng ngạc nhiên hơn, khi biết rằng những chuyện cổ tích bà được nghe kể khi còn nhỏ không phải do ông bà nội ngoại, không phải do cha mẹ...

  • HƯỚNG DƯƠNGTết đã gần đến rồi. Những ngày này mọi người chỉ nghĩ đến một việc là chơi gì trong ngày Tết? Trước đây, cuộc sống thiếu thốn thì Tết là dịp để ăn uống cho no say đầy đủ - Vậy mới gọi là ăn Tết. Còn giờ, mọi sự dinh dưỡng thừa mứa, đàn ông bụng phệ nhan nhản, đàn bà đi hút mỡ thường kỳ, bệnh béo phì của trẻ em gia tăng. Ăn uống là kẻ thù của con người. Vậy nên, Tết không còn là ăn Tết nữa mà là vui Tết, chơi tết.

  • PHẠM ĐÌNH TRỌNGChưa bao giờ Ngay có ý nghĩ rời Hà Nội đến sống ở vùng đất khác thế mà anh đã đột ngột đưa cái gia đình bé nhỏ không còn nguyên vẹn của anh đi vào thành phố phía Nam cách Hà Nội ngót hai ngàn cây số. Anh đi như chạy trốn để rồi càng ngày anh càng nhớ quay quắt nơi anh đã để lại cả một thời tuổi trẻ đẹp đẽ.

  • THU NGUYỆTTrắng và trắng. Muột thơm và tinh khiết. Mặt đất dường như đỏ và mịn hơn khi được trải mình ra đón nhận sự nương tựa dịu dàng của những cánh hoa sứ ấy. Tôi khẽ khàng nhặt một bông sứ nhỏ, không đưa lên mũi ngửi như thói thường mà trang trọng áp vào tai. Trong làn hương tràn ngập, tôi nghe vẳng tiếng chuông ngân đẫm mát. Ai đó ơi, hãy một lần thử xem, nhặt một bông sứ nhỏ sân chùa, nhè nhẹ áp vào tai, sẽ nghe thấy những âm thanh và làn hương kỳ diệu! Cái cảm giác lạ lùng mà tôi đoán chắc rằng ai đó sẽ bất ngờ thấy mình khác hẳn đi.

  • PHẠM THỊ ANH NGAVới tôi mạ không có công ơn mang nặng đẻ đau, nhưng mạ đã thực sự ban cho tôi sự sống: sau khi lần lượt sinh bốn người con gái đầu lòng, lần thứ năm chín tháng cưu mang và "vượt cạn mồ côi một mình" mạ đã sinh ra anh, người sau này sẽ là "một nửa" của đời tôi.

  • PHẠM THỊ XUÂNTừ ngày Hoạt được đề bạt lên phó giám đốc, Mùi bắt đầu tiến hành một cuộc cách mạng trong gia đình. Nhìn vào đâu, vào cái gì, Mùi cũng chưa thấy nó xứng đáng với địa vị mới của chồng. Ngôi nhà ba gian vừa xây cách đây không lâu, bây giờ nó đã trở nên lạc hậu trong mắt Mùi. Mùi nghĩ, giá như hồi ấy mà làm theo kiểu nhà hộp thì bây giờ có phải đã lên thêm được một tầng như một số người quanh đây không.

  • HƯƠNG LANTuấn nhìn đồng hồ, rồi lại đi lui, đi tới không biết là lần thứ bao nhiêu trong buổi sáng này trên hành lang của Tòa án nhân dân Thành phố. Vẫn còn 5 phút nữa mới đến giờ, nhưng Tuấn có cảm giác giận Hương, có lẽ cô ta không đến, cô ta muốn gây khó dễ cho mình... Tuấn thầm nghĩ và lòng anh hiện lên một chút đay nghiến với người phụ nữ đang còn là vợ anh trong vài tiếng đồng hồ nữa.

  • BÙI MINH QUỐCNgày hôm ấy là một ngày không có gì đặc biệt trong cuộc sống cực nhọc, buồn tẻ của giáo sư Lê Khương- một ông già ngót sáu mươi tuổi mà vẫn sống độc thân. Nhưng rồi có một sự đặc biệt đến với ông vào lúc gần nửa đêm. Sau khi rà sửa lại lần thứ ba mấy chục trang cuối tập bản thảo một công trình mới nhất của mình, giáo sư đặt lưng xuống giường ngủ thiếp đi. Và, như thường lệ, ông bắt đầu thấy chiêm bao.

  • DƯƠNG THÀNH VŨBuổi sớm maiSông thức dậyMột mìnhTrôi mải miết    (René Char)

  • ĐOÀN BÍCH HỒNGBà lão ngồi bất động nơi cây cầu giơ một khúc gỗ khẳng khiu đỡ lấy sàn nhà. Trong lúc liếc nhìn bóng mình lao chao trong cái màu xanh rêu đùng đục của dòng sông đang gắng gỏi vài mét nước cuối cùng trước khi nhập vào lòng biển, bà cố ghi nhận cái thời khắc quan trọng mà bà cảm thấy nó đang đến gần.

  • NHƯ BÌNH1. Đực và cái. Một đứa con trai đứng bên một đứa con gái là giống đực đặt bên giống cái. Còn nhỏ chúng là những đứa trẻ, không ngại ngùng bởi vấn đề giới tính. Trưởng thành, hai giống bên nhau tạo sức hút và nảy sinh cái gọi là tình yêu. Các cụ ta xưa rất hiểu quy luật giới tính này. Chả thế mà cứ nhốt hai giống vào một phòng là thành vợ chồng.Bố mẹ tôi cũng là một cặp như thế.

  • NGUYỄN VĂN ĐỆThuần ra bến thuyền vào lúc thuỷ triều đang lên. Lúc này là nửa đêm. Trăng hạ tuần trong như con cá mòi tháng bảy nhảy hất lên từ mặt biển treo mình giữa nền trời xanh ngát. Gió tây se lạnh, gió thổi từ đất liền ra giộng rừng phi lao reo lên cùng với tiếng vi vu, vi vút, gió thổi vào ngọn sóng làm hắt lên những tia sáng.

  • NGUYỄN THANH MỪNGĐã bát tuần, ông vẫn chưa nghĩ đến cái già. Đó là ông nói vậy, bô lô ba la trước bàn dân thiên hạ, trong đó tất nhiên không thiếu cả bạn bè, nhất là những người đáng tuổi con cháu nhưng được ông tôn vinh là thần tượng của quốc gia, thậm chí quốc tế nữa.

  • NHẤT LÂM          Truyện ngụ ngôn hiện đạiTrong đàn chó săn của ông Mỗ thì Fóc vào loại anh cả đỏ. Ngoài chân cao, mũi thính, mình dài, chạy như tên bắn... nói chung những gì cần cho một con chó săn đích thực thì Fóc có cả.

  • NGUYỄN TRƯỜNG                           Nơi hầm tối là nơi sáng nhất          (Thơ Dương Hương Ly)

  • TRẦN THUỲ MAINăm nay mùa đông lạnh hơn hẳn mọi năm. Gió cao nguyên cứ tràn qua, tràn qua từng đợt, những bông quỳ chấp chới vàng như sóng. Quỳnh bảo tôi: Gió ở đây một đi không trở lại, khác ở Huế. Gió từ sông Hương thổi lên là gió rất đa mang, thổi tà áo bay dùng dằng, như trong câu hát ngày xưa "Gió bay từ muôn phía...".

  • HẢI THITôi lớn lên ở một ngôi nhà nhỏ ven sông. Con sông nhỏ chảy qua một vùng quê hẻo lánh. Nhà tôi và nhà Khan đối diện nhau trên dòng trôi quê mùa ấy, chỉ có điều nhà tôi thì quay mặt ra sông, còn nhà Khan thì quay lưng ra sông, chính vì thế mà thuở nhỏ, mỗi lần tắm sông cười đùa ầm ỉ, tôi hay bị ba tôi rầy la nhiều hơn, vì ba tôi chỉ cần ngồi trên nhà đưa mắt là thấy ngay tôi đang trèo lên những bè lục bình để làm công chúa, còn ba Khan thì chỉ trông thấy Khan ném bùn đất vào cô công chúa kỳ khôi mỗi khi ông có việc phải ra đằng sau bếp.

  • NGUYỄN VIỆT HÀThư viện, nơi mà tôi sẽ tả kỹ, là một nơi tôi đã nhớ và bị nhớ rất lâu. Không phải ở đó tôi đã lần đầu yêu và lần đầu hôn. Tôi nhớ nó vì có một truyện kỳ dị, cái truyện đó rồi sẽ đẩy tôi suýt nữa trở thành một thứ bải hoải rẻ rách.

  • XUÂN ĐÀITôi làm đơn xin thôi việc, dù biết làm như vậy là phá vỡ hợp đồng đã ký kết với công ty. Tôi phải bồi hoàn. Là nhân viên kiểm toán, tôi không thể tiếp tục làm theo sự chỉ đạo của sếp, cộng tác với doanh nghiệp, đồng lõa với doanh nghiệp, sáng tác ra những con số ma để đối phó với thanh tra. Có tờ báo đã giễu cợt việc làm này là quân trộm cắp cộng tác với quân siêu trộm cắp, có lẽ nhà nước nên lập thêm công ty kiểm toán của kiểm toán.