Lễ nghĩa của người Việt: Nghèo vẫn giữ lễ

15:26 07/04/2017

Thuở hàn vi, nhà sử học, nhà văn Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) “túi rỗng bếp lạnh”, “một đồng tiền cũng chẳng dính tay” có viết Bài văn trách ma nghèo tuyệt hay.

Từ trái qua: Tượng thờ Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi tại chùa Dâu (Bắc Ninh), Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện - Ảnh: Tư liệu

Qua đó, ông biện luận: Dù nghèo nhưng đó cũng là lúc con người ta phấn đấu để thành tài, trui rèn tâm trí, sống có ích với đời. Hãy nghe ma nghèo nói về “vai trò” của mình: “Cứ xem từ thời Hạ, Thương, Chu trở xuống, ở các nơi danh hương hiền phố, các vị khanh tướng có danh tiếng trong thiên hạ, hết thảy đều qua tay tôi điểm hóa trước, sau đó mới luyện đức tốt, thêm trí lực, rồi mới lập nên sự nghiệp phi thường. Thí dụ như Y Doãn trước nấu bếp, Thái Công Vọng làm nghề mổ gia súc, Nịnh Tử chăn trâu, Tô Quý Tử mặc áo cầu rách, đó đều là những tấm gương rõ ràng ở đời trước. Có mười mẫu ruộng chỉ làm được ông lão nông; có nghìn vàng ở chợ chỉ được khen là anh lái buôn giàu. Nhưng một chàng áo vải thường làm nên khanh tướng, thế thì cái nghèo có phụ gì người đời đâu!”.
 
Do nghèo nên nhiều nhà chọn lấy nếp sống cần kiệm. Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889 - 1954) viết bài thơ răn: “Chớ nên học thói xa hoang/Rượu, bạc, nha phiến tìm đàng tránh xa/Chè xanh cho đến thuốc trà/Cũng đừng mang nghiện rồi mà lụy thân/Chỉ hai chữ Kiệm chữ Cần/Con em ta phải tập dần cho quen/Rồi ra trăm sự đều nên...”.

Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện (1913 - 1997), con trai cụ Nguyễn Khắc Niêm, có kể lại thời hoa niên: “Sáng dậy ăn cháo với mấy quả cà, có khi có chút cá kho. Học đến khoảng 10 giờ, bụng đói như cào”. Nhờ vậy, năm 1939, đại chiến thế giới bùng nổ, các du học sinh ở Pháp không nhận được tiền của gia đình gửi sang nữa, lâm cảnh khổ sở, thiếu thốn hoặc phải cúi đầu lên Bộ Thuộc địa xin nhận trợ cấp. Chàng sinh viên Nguyễn Khắc Viện sống cần kiệm từ thuở bé ở nhà nên đã vượt qua được.
 
Có thể nói, trong lễ nghĩa của người Việt nổi bật quan niệm: Dù giàu hoặc nghèo mà giữ được thanh liêm, đạo đức trong đối nhân xử thế mới là cốt lõi làm người. Ấy mới là sự đáng kính, đáng trọng. Chứ giàu nứt đố đổ vách bằng trò bắt nạt dân đen, làm ăn phi pháp và không biết giữ lễ: “Dẫu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, cũng bất quá thủ tài chi lỗ” (Nguyễn Công Trứ) - chẳng khác gì “kẻ ngu đần bo bo giữ của”.
 
Quan niệm này chi phối cả trong việc dựng vợ gả chồng. Dù hoàn cảnh nghèo khó, không “môn đăng hộ đối” nhưng chàng thư sinh mặt trắng Đặng Văn Thụy (1858 - 1936) vẫn được Thượng thư Cao Xuân Dục chọn rể. Sau đó, chàng “ở rể” và được bố vợ tiếp tục nuôi ăn học. Cái nhìn của cụ Cao thật tinh đời bởi cụ đánh giá một người không qua vị trí xuất thân mà chính là tài năng, đạo đức của người đó. Về sau, ông Thụy đậu Hoàng giáp, giữ chức Tư nghiệp Quốc tử giám, sau thăng chức Tế tửu (tương đương chức hiệu trưởng hiện nay).
 
Dù công việc như sở nguyện nhưng thu nhập không cao, vậy mà nhiều người vẫn không “mặc chiếc áo quá rộng” do sự cân nhắc, nâng đỡ, ưu ái của bề trên. Trường hợp của “Trạng Bồng” Vũ Duy Thanh (1807 - 1859) là một trong rất nhiều thí dụ sinh động. Khi giữ chức Tế tửu Quốc tử giám, ông được vua Tự Đức ban khen, có lần nhà vua hỏi: “Trẫm muốn ban chức cho khanh, khanh muốn chọn chức nào?”. Ông từ chối: “Được chuyên về rèn luyện nhân tài cho quốc gia, với thần như thế đã là thỏa nguyện”.
 
Rõ ràng chọn lấy công việc đúng với sở trường, chứ không vì việc làm ấy đem lại đồng tiền nhiều hay ít khiến mình giàu hay nghèo, còn là quan niệm vui sống của người Việt. Theo Ngô Thì Sĩ: “Tôi nghe nói: lợi nhiều thì trí mờ ám, tiền dễ thì thêm mắc lỗi”. Với không ít người có danh phận, vai vế trong xã hội thì thường nhiều kẻ đến nhờ cậy, đút lót, vì thế họ dễ dàng kiếm ra đồng tiền, mau chóng giàu lên bất chính. Thế nhưng một khi biết giữ lễ, đó chính là “ba-ri-e” rất cần thiết để họ cân nhắc và chọn lấy phép ứng xử phù hợp. Năm 1768, gặp kỳ thi Hương có sĩ tử đến nhà nhờ cậy đút lót, bà vợ Ngô Thì Sĩ cự tuyệt nghiêm khắc: “Tôi lẽ nào vì chút lợi nhỏ xíu mà hại đến tiết tháo thanh liêm của chồng tôi”.

Giữ đức thanh liêm là cốt lõi của lễ nghĩa người Việt xưa nay. Có lần nửa đêm vua Trần Minh Tông sai người bí mật đem đặt mười quan tiền trước cửa nhà Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346). Tờ mờ sáng hôm sau, ông rảo bước ra sân thấy những đồng tiền đó. Ông hỏi láng giềng chung quanh có ai đánh rơi thì đến nhận lại. Không ai nhận cả. Khi vào chầu, ông đem số tiền nhặt được tâu với nhà vua và nộp vào công quỹ. Nhà vua lắc đầu: “Nếu không có ai nhận, mà tiền lại ngay trước cửa nhà khanh thì đó là tiền của khanh. Khanh cứ giữ lấy mà dùng”. Ông khẳng khái: “Tâu bệ hạ, nếu thần đổ công sức thì đó mới là tiền của thần. Bỗng dưng có được số tiền lớn này, không phải do lao động mà có, thần không dám nhận”.
 
Sử còn chép rằng, vua Trần Anh Tông cũng rất quý trọng Mạc Đĩnh Chi, có lần ái ngại hỏi: “Trẫm nghe các quan nói nhà Trạng túng, nếu có thiếu gì cứ nói, trẫm sẽ tư cấp thêm”. Ông tâu: “Hạ thần trên nhờ ơn vua, dưới nhờ lộc nước; vợ con không đói rét là đã toại nguyện. Chỉ xin bệ hạ thương lấy muôn dân mà lo cho dân, xây dựng nước nhà vững bền thịnh trị. Đó mới là ước nguyện của hạ thần. Cúi xin bệ hạ xét cho!”. Nhà vua khen ông nói chí phải.

Nguồn: Lê Minh Quốc - TN
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Câu chuyện về văn hóa đọc không còn là đề tài mới mẻ nhưng vẫn luôn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Liệu rằng độc giả trẻ đã chọn được cho mình hướng đi đúng đắn?

  • Đó là thông tin được đưa ra tại cuộc họp tổng kết năm của Cục Xuất bản chiều 24/12. Nguyên nhân của việc không đọc xuể sách phát hành là do thiếu nhân lực.

  • Cùng với yêu cầu ngày một cao đối với chất lượng bản dịch, việc nhận xét, hồi âm của độc giả cũng ngày càng nhiều hơn và trực tiếp hơn, tuy nhiên, trong số đó có những người đang làm việc “ném đá” thay vì “phê bình” một cách thiện chí – đó là ý kiến của BTV Phùng Hồng Minh về những tranh luận quanh bản dịch tiểu thuyết “Bên phía nhà Swann” của Marcel Proust.

  • Hiện, khá nhiều kiệt tác của văn chương, triết học thế giới đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích khai trí, “mở mắt”, dẫn bạn đọc vào biển kiến thức sâu rộng của nhân loại. Song, trước những bản dịch sai “từng xăngtimét”, bạn đọc không thể “nhắm mắt làm ngơ”…

  • Theo mấy nghiên cứu gần đây thì việc đọc sách văn học khiến cho người ta thông minh hơn, giàu tình cảm hơn, và văn minh hơn. Báo New York Times bèn đặt cho một số nhà văn và học giả câu hỏi: “Văn chương dạy chúng ta điều gì về tình yêu?”

  • Nghệ sỹ ăn mặc phản cảm, giá trị nghệ thuật bị xem nhẹ, thiếu văn hóa trong cách ứng xử... là những hiện tượng cho thấy văn hóa Việt đang biến đổi một cách nhanh chóng.

  • Nghề vẽ tranh trên kiếng ở Phú Tân (H.Châu Thành, Sóc Trăng) từng một thời nổi tiếng khắp Nam bộ nhưng giờ đây phải đối mặt với nguy cơ mai một.

  • L.T.S: “Muốn giao lưu văn hóa với bên ngoài tốt thì bản thân đất nước phải tốt”. Đó là nhận định xuyên suốt cuộc nói chuyện với phóng viên Tạp chí VHNA của Nhà xuất nhập khẩu văn hóa Hữu Ngọc. Khó mà ngờ được ở tuổi 97, ông vẫn giữ tác phong nhanh nhẹn, trí nhớ minh mẫn đến vậy. Bạn bè gọi ông là “cầu thủ ngoại hạng”, điều đó thật chính xác.

  • Những tư liệu quý chìm trong hỗn độn hiện vật xung quanh. Những bảng biểu số liệu nặng tính báo cáo... Chúng khiến triển lãm Hà Nội 60 năm xây dựng và phát triển (từ ngày 4 - 12.10 tại Bảo tàng Hà Nội nhân kỷ niệm 60 năm giải phóng thủ đô) giống như một báo cáo thành tích khô cứng.

  • Biết bao tác giả có tác phẩm thơ, văn được sử dụng trong sách giáo khoa đã không được chi trả tiền tác quyền suốt hàng chục năm qua...

  • Họa sĩ Trần Lương vừa trở thành một trong hai nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hóa nhận được Giải thưởng Lớn giải Hoàng tử Claus 2014 (cùng Abel Rodriguez từ Colombia). “Giải thưởng cho tôi thấy rõ là mình đang làm những công việc bình thường của một công dân bình thường có trách nhiệm” - nghệ sĩ chia sẻ.

  • Tồn tại mấy trăm năm qua, vấn đề i và y trong chính tả tiếng Việt đã được chính quyền thuộc địa Pháp đặt vấn đề cải cách từ đầu thế kỷ XX. Sau 30-4-1975 các cơ quan hữu quan như Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng có những quy định về vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài nước trước nay cũng đã tìm hiểu và có ý kiến, nhưng vẫn chưa được giải quyết rốt ráo.

  • Nếu như ca trù, dân ca quan họ, hát xoan, đờn ca tài tử Nam Bộ, nhã nhạc cung đình Huế… của Việt Nam được quốc tế công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thì trong tài nguyên, cũng có tài nguyên phi vật thể- tài nguyên con người.

  • Dân tộc và Văn hóa dân tộc Việt Nam có trước rất xa ngày lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhà nước này đã được dựng nên, tồn tại và phát triển trên nền tảng văn hóa Dân tộc. Nhà nước này, như một lẽ tất yếu, có trách nhiệm bảo vệ, phát triển nền văn hóa dân tộc.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Bắc Kạn có nhiều di tích lịch sử, với 12 di tích cấp quốc gia và 33 di tích cấp tỉnh. Trong thời gian qua, nhiều di tích đã được trùng tu, tôn tạo. Tuy nhiên, việc trùng tu lẽ ra phải trân trọng lịch sử, thì những người thực hiện lại “hoành tráng hóa” di tích.

  • Người ta hay quan niệm tháng bảy âm lịch là tháng “cô hồn”, rằm tháng bảy là để “xá tội vong nhân”, toàn khái niệm thuộc về “thế giới khác”. Ai đi chùa thì được biết tháng bảy còn gọi là mùa Vu Lan.

  • Lòng hiếu thảo hay lòng từ bi ở cấp độ cá nhân và gia đình giúp chúng ta tăng cường sức đề kháng với cái xấu, cái ác bên ngoài. Một người con hiếu thảo sẽ khó bị cám dỗ bởi những tệ đoan xã hội.

  • Những tác phẩm văn học mang nặng tính giải trí dần chiếm lĩnh thị trường và thu hút ngày càng nhiều cây bút trẻ.

  • Sau giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 1975; đặc biệt là sau tiến trình đổi mới đất nước năm 1986, văn học TPHCM có những bước phát triển rất ngoạn mục.