Làng nghề nón lá Thanh Tân

09:08 07/11/2019

NGUYỄN THẾ  

Làng Thanh Tân thuộc xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế là một xứ đạo hình thành từ thế XIX.

Ảnh: Phạm Bá Thịnh

Giữa làng là trục đường thiên lý, tức đường “thượng đạo” xưa đi ven vùng đồi núi phía Tây Thừa Thiên Huế. Đoạn đi qua làng Thanh Tân nay là tỉnh lộ 11b, nối liền với QL I A tại ngã tư cầu An Lỗ (cách khoảng 10 km). Năm 1861, với chính sách cấm triệt để đạo Gia Tô, vua Tự Đức đã ban chỉ dụ “phân sáp” nhằm phân tán giáo dân vào vùng dân cư không theo đạo. Chỉ dụ bắt buộc tất cả các giáo dân, đàn ông và đàn bà, giàu cũng như nghèo, người già cũng như trẻ con đều phải phân tán vào các làng bên lương (các làng không theo đạo Thiên Chúa). Các làng bên lương phải chịu trách nhiệm quản lý giáo dân theo tỷ lệ cứ 5 người lương một người theo đạo. Giáo dân đàn ông phải tách ra khỏi giáo dân đàn bà, đàn ông đưa đi một tỉnh, đàn bà đưa đến một tỉnh khác để họ không được sum họp, trẻ con sẽ giao cho các gia đình bên lương nào muốn nuôi chúng… Từ chỉ dụ này, một số lớn giáo dân từ các nơi đã được đưa đến vùng đồi núi Thanh Tân - Ồ Ô cư trú xen với các làng không theo đạo ở đây. Năm sau, do ký hòa ước Nhâm Tuất 1862, vua lại ban dụ tha đạo. Do đó, năm 1864, giám mục Sohier cai quản giáo phận Huế đã thành lập sở Dục Anh Thanh Tân để nuôi dạy con cái mồ côi của những gia đình bị “phân sáp”. Số trẻ em của sở Dục Anh sau khi trưởng thành được nhà chung tổ chức dựng vợ gã chồng, chia ruộng đất để tiếp tục sinh sống ở nơi đây. Đó là điều kiện để hình thành nên giáo xứ Thanh Tân và các họ đạo gần đó như Sơn Quả (xã Phong Sơn), Bến Củi (xã Phong Xuân)…

Sách Đồng Khánh địa dư chí triều Nguyễn đã từng ghi nhận: phường Thanh Tân thuộc tổng Phò Ninh, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ngày xưa, sở Dục Anh ở xứ đạo Thanh Tân nằm ở khu vực Ba Trục bên suối Ồ Ồ, nay là xã Phong Xuân (giáp ranh với Phong Sơn). Thời đó nơi đây là vùng thâm sơn nước độc, dịch bệnh đã từng gây chết nhiều người, đặc biệt là trẻ em của sở Dục Anh. Sự kiện này nhiều người dân lớn tuổi ở thôn Điền Lộc xã Phong Xuân vẫn còn nhớ, họ kể lại rằng: Ngày trước sở Dục Anh của xứ đạo Thanh Tân ở đây nuôi rất nhiều trẻ em, nhưng do về sau do lẫm thóc của nhà chung (tên gọi đối với nhà thờ Thiên chúa giáo) có một con rắn hổ mang rất lớn vào làm ổ, nọc độc rắn vương vào thóc lúa, gây chết nhiều người, nên các cha cố đã cho di dời về địa điểm nhà thờ Thanh Tân ngày nay. Thanh Tân cũng từng là nơi gắn liền với tuổi thơ của chàng thi sĩ tài hoa bạc mệnh Hàn Mặc Tử. Sinh quán của Hàn Mặc Tử ở Lệ Mỹ, Đồng Hới, từ nhỏ đã vào sống với người thân ở Thanh Tân cho đến năm 14 tuổi. Khi người cha qua đời (1926), Hàn Mặc Tử lại theo gia đình vào Qui Nhơn. Thời kỳ đầu sáng tác, nhà thơ lấy bút hiệu là Lệ Thanh (tên ghép hai chữ đầu của quê hương Lệ Mỹ và Thanh Tân).

Làng Thanh Tân nằm sát với dãy trường sơn phía Tây huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thanh Tân xưa là nơi “rừng thiêng nước độc”, nhưng những người đến cư trú nơi đây vẫn phải an phận với cuộc sống. Cho đến nay, người dân vẫn còn truyền tụng câu:

Núi lâm sơn nuôi dân đào thải,
Biển tây hồ cứu kẻ lâm nguy.


Người Thanh Tân đã sống nhờ vào nguồn lợi lâm thổ sản tự nhiên của vùng núi rừng tiếp giáp với làng. Ven các khe suối và thung lũng của vùng rừng núi ở đây là nơi sinh trưởng thích hợp của loài cây cọ nhỏ gọi là cây lá nón, tên khoa học là: Licuala Fatoua Becc. Nguyên liệu làm nón là đọt lá non đã nhú khỏi cây nhưng chưa nở thành lá; người ta khai thác bằng cách rút đọt lá nón từ rừng về, buộc thành từng túm nhỏ đạp sơ cho tơi tép lá rồi phơi, sấy và là cho phẳng, láng. Thực hiện các công đoạn làm lá nón đòi hỏi phải là người có kinh nghiệm mới cho ra được loại lá xanh trắng mềm mại, dễ là phẳng. Lá nón ở vùng rừng Thanh Tân mỏng có màu trắng xanh là nguyên liệu để tạo nên những chiếc nón lá Huế nổi tiếng, nhất là đối với nón bài thơ, phải cần dùng lá mỏng màu xanh trắng mới nổi rõ được họa tiết bên trong chiếc nón. Vì vậy, trước đây Thanh Tân là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu lá nón cho những người làm nón trong vùng. Họ cung cấp cả nguồn lá tươi (chưa phơi sấy) cho đến lá thành phẩm. Đồng thời đây là nơi tổ tiên họ đã phát triển nghề làm áo tơi, nón lá để cung cấp khắp vùng Thừa Thiên, Quảng Trị…

Các cụ cao niên tuổi 70, 80 trong làng cho biết, khi các cụ lớn lên, đã thấy làng có nghề khai thác lá nón, có lò sấy lá và có đến vài chục hộ làm nghề chằm nón. Trước Cách mạng tháng Tám 1945 nghề làm nón của làng Thanh Tân chủ yếu là chằm nón thô và chằm áo tơi để phục vụ nhu cầu tiêu dùng chủ yếu cho các làng xã lân cận trong vùng. Sau năm 1945 đến năm 1964, nghề chằm nón đã phát triển số hộ tham gia làm nghề chằm nón tăng lên khoảng 40 - 50 hộ. Chiếc nón, cái tơi của người dân Thanh Tân đã mở rộng tiêu thụ ở các chợ trong và ngoài tỉnh. Đến năm 1964 do chiến tranh ác liệt, nhân dân thôn Thanh Tân đã di tản đến nhiều địa phương khác để lánh nạn. Đa số bà con vào sinh sống tại Phủ Cam và phường Kim Long thuộc thành phố Huế. Tại đây, những chị em phụ nữ tiếp tục phát huy nghề làm nón lá truyền thống của Thanh Tân. Chính người dân Thanh Tân đã góp phần làm nên thương hiệu làng nón Phủ Cam và Kim Long.

Sau năm 1975 quê hương được giải phóng, người dân thôn Thanh Tân lại trở về quê hương để khai hoang phục hóa, tăng gia sản xuất, nam giới thì lên rừng khai thác mây, gỗ củi, lá nón..., phụ nữ lại tiếp tục mở rộng nghề chằm nón lá. Thời kỳ này, ở Thanh Tân có trên 120 hộ với hơn 200 lao động (chưa kể các em học sinh nhỏ tuổi) tham gia sản xuất nón lá. Trong làng có đến 5 - 6 lò sấy lá cung cấp cho các hộ chằm nón. Vành nón được vót từ cây lồ ô trồng trong làng và mua thêm ở vùng Hòa Mỹ cách đó khoảng 7 - 8 km. Do nhu cầu thị trường lúc đó cần nhiều nên họ chỉ kịp chằm nón thô rồi chuyển vào chợ Đông Ba ở Huế để họ thuê nhân công tiếp tục gia công hoàn thiện việc nức vành, kết soài chóp nón, gắn dây màu tạo phong cảnh Huế trên chiếc nón để bán cho khách du lịch...

Ngày 19/7/2010, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ ký Quyết định số 1347/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00020 cho sản phẩm nón lá “Huế” và trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý Nón lá Thanh Tân. Tháng 6/2016, làng nghề nón Thanh Tân đã được trao bằng công nhận làng nghề truyền thống. Nhiều năm liền, nón lá Thanh tân được UBND huyện Phong Điền bình chọn là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu, tham gia triển lãm tại Festival Huế. Số hộ làm nghề nón hiện nay ở Thanh Tân có xu hướng giảm so với trước đây, lý do là giá trị thu được từ nghề làm nón lá chưa đảm bảo được nhu cầu cuộc sống cho người dân. Một phần do việc khai thác lá nón ngày càng khó khăn vì phải đi xa vào tận rừng sâu mới thu hái được loại lá đạt chất lượng. Địa phương đã có qui hoạch vùng trồng cây lá nón dưới tán rừng cộng đồng của Thanh Tân, Sơn Quả để đảm bảo nguyên liệu cho làng nghề nhưng đến nay vẫn chưa triển khai. Việc phục hồi và phát triển làng nghề đi đôi với việc bảo tồn, phát huy những giá trị di sản văn hóa tinh thần ở địa phương; gìn giữ vốn quý tri thức dân gian của những người thợ thủ công.

Cách làng nghề nón lá Thanh Tân khoảng 2 km là Khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng Alba Thanh Tân. Làng nghề nón lá truyền thống và khu nghỉ dưỡng suối khoáng nóng nằm gần nhau và cùng mang tên Thanh Tân. Ngày xưa, khi người Pháp phát hiện giá trị của nguồn suối khoáng nóng, họ đã lấy tên làng Thanh Tân để đặt tên cho nguồn suối khoáng. Mong rằng có sự phối hợp giữa doanh nghiệp và làng nghề trong việc giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm nón lá Thanh Tân; xây dựng tour tuyến, đưa làng nghề truyền thống nón lá Thanh Tân trở thành “sản phẩm du lịch” để giới thiệu cho du khách. Ngoài ra, làng Thanh Tân còn có tiềm năng về du lịch tâm linh ở địa điểm đồi Đức Mẹ; ngôi mộ của ông nội nhà thơ Hàn Măc Tử, nơi ở thời niên thiếu của chàng thi sĩ tài danh mang bút hiệu Lệ Thanh; tất cả đều là những dấu ấn văn hóa tinh thần cho những du khách đến với Thanh Tân trong tương lai.

N.T  
(SHSDB34/09-2019)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN HÓA

    LGT: Đài Tưởng niệm Chiến sĩ Trận vong nằm ở trước Trường Quốc Học (thường được gọi là Bia Quốc Học) là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc độc đáo của Huế; trong thời gian qua Trung tâm Công viên Cây xanh Huế đã đứng ra đầu tư tu bổ tôn tạo.

  • Nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Đại Học Huế & 60 năm Khoa Văn Đại học Khoa học Huế

    PHAN THUẬN AN
    (Cựu sinh viên trường Đại học Văn Khoa, và khóa I Viện Hán Học Huế)

  • Rạng sáng ngày 22-3 (tức 25-2 âm lịch), Trung tâm bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức lễ tế Xã Tắc năm 2017 tại đàn Xã Tắc, phường Thuận Hòa, thành phố Huế. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm trong vòng gần một giờ đồng hồ theo các nghi lễ và vật phẩm được định rõ trong sách sử.

  • Mùa Xuân 1904
    Trần Quý Cáp bước vào tuổi 34 và đỗ đầu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn tại Huế. Ông ở Huế chưa đầy nửa năm, rồi về Quảng cho kịp ngày khai hội Duy Tân.

  • Mối quan hệ hợp tác về trùng tu di sản văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản tại cố đô Huế đã được đặt nền móng từ đầu thập niên 1990 bằng dự án trùng tu công trình Ngọ Môn, một biểu tượng của Huế.

  • VÕ TRIỀU SƠN

    Voi đang ngày càng hiếm hoi, vậy mà ngày xưa, nó từng xuất hiện ở Huế hàng ngàn thớt voi trong kinh thành. Nhiều tư liệu xưa đã đề cập đến chuyện nuôi voi trên đất Cố đô xưa.

  • DƯƠNG VIỆT QUANG

    Sử cũ cho thấy rằng, triều Nguyễn đã rất chú trọng việc đầu tư thủy lợi, giao thông đường thủy. Một thống kê từ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” cho biết, có đến gần 60 lần các vua Nguyễn ban hành chỉ dụ về việc đào sông, nạo vét kênh rạch… ở 15 tỉnh trong cả nước.

  • THƠM QUANG  

    Tết Nguyên Đán luôn là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam. Tết Nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Trong đó ngày cuối cùng của năm hay còn gọi là ngày 30 tết là một ngày đặc biệt.

  • LÊ VĂN LÂN

    Đô thị phát triển nhanh là điều đáng mừng, nhưng phát triển nhanh và kiểm soát được là điều hệ trọng. Và để kiểm soát được, đô thị phải được phát triển theo một kịch bản. Kịch bản đó chính là quy hoạch đô thị, chân dung tương lai của đô thị.

  • Nhìn lại một năm nhiều khó khăn

    Năm 2016 sự cố môi trường biển đã tác động tiêu cực, lâu dài đến tăng trưởng của nền kinh tế các tỉnh miền Trung, trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế.

  • TRƯỜNG AN

    Giấc mơ đó, cũng chính là sự thể hiện quyết tâm với thái độ quyết liệt để phát triển du lịch Thừa Thiên Huế; nhiều chủ trương và giải pháp được coi là có tính đột phá mạnh mẽ và quyết liệt nhất từ trước đến nay vừa được đề xuất. Toàn tỉnh đang phấn đấu trở thành một trong những điểm đến hàng đầu của cả nước và khu vực; một điểm đến ngang hàng với các thành phố di sản văn hóa nổi tiếng thế giới.

  • HỒ VĨNH

    Vừa qua Tạp chí Sông Hương số 333 tháng 11 năm 2016 có đăng bài “Làng cổ Dương Hóa” của tác giả Trần Viết Điền. Sau khi đọc bài “Làng cổ Dương Hóa” tôi thấy cần phải trao đổi và đóng góp một số ý kiến hầu làm sáng tỏ hơn ở một số chi tiết mà tác giả Trần Viết Điền đã viết.

  • Ở phía tây nam Kinh thành Huế, thuộc bờ nam sông Hương, có một dãy núi uốn lượn như mình rồng mang tên Long Sơn. Vùng long mạch này từ cuối thế kỷ 17 đã phát tích dòng thiền Việt do tổ Liễu Quán khai sáng.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Những ngôi phủ đệ là di sản văn hóa - lịch sử, kiến trúc nghệ thuật sống động, độc đáo của đất Cố đô Huế, có từ triều Nguyễn với 13 đời vua (1802 - 1945), và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

  • LÊ VĂN LÂN

    Xây dựng Huế trở thành một đô thị đáng sống, một thành phố lịch sử cổ kính, văn minh, hiện đại là mong ước của người dân và cũng là mục tiêu mà thành phố vươn tới.

  • HỒ VĨNH

    Vừa qua Tạp chí Sông Hương Đặc biệt số 19 tháng 12/2015 đã đăng ba bài viết cung cấp một số tư liệu có liên quan đến Hội Quảng Tri ở Huế của các tác giả sau đây:

  • Tin vui cho công chúng yêu nghệ thuật và giới văn nghệ sĩ Huế, tại Kỳ họp thứ 2 HĐND tỉnh, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã thông báo cho cử tri biết về lộ trình thành lập Bảo tàng Mỹ thuật Huế.

  • THÁI KIM LAN

    Nhân kỷ niệm 120 năm trường Quốc học Huế

  • Được sự cho phép của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, từ ngày 7/10/2016, Bảo tàng Lịch sử Thừa Thiên Huế đã phối hợp với Viện Khảo cổ học mở hố thám sát thăm dò dấu vết lăng mộ vua Quang Trung tại gò Dương Xuân (Trường An, TP Huế) với diện tích 22 m2.

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Di tích lịch sử Đình Dương Xuân Hạ nằm ở khu vực thuộc làng cổ Dương Hóa, với bề dày lịch sử trên dưới 500 năm.