Kỷ niệm lần thứ 115 ngày sinh thi sĩ - nghệ sĩ Ưng Bình Thúc Giạ Thị (9-3-1877 - 9-3-1992)

14:53 09/12/2020

VƯƠNG HỒNG

Ưng Bình Thúc Giạ Thị quê phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, sinh ngày 9 tháng 3 năm 1877, mất ngày 4 tháng 4 năm 1961. Ông là cháu nội Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ nổi tiếng với "Vỹ Dạ Hợp tập".

Ảnh: internet

Thân sinh của Ưng Bình là Tiểu thảo Hường Thiết. Với hàm Hiệp tá Đại học sĩ, Hường Thiết có nhiều sáng tác giá trị như: "Tứ tự ca" (viết về lịch sử Việt Nam kể từ thời Hồng Bàng); "Liên nghiệp hiên thi tập (chữ Hán); "Vẽ một bản đồ nước Việt Nam (từ thời Hồng Bàng đến năm 1900, bản mộc lưu tại Viện bảo tàng cách mạng, Hà Nội đã được công bố trong Bulletin des amis du vieux de Hué)

Thân mẫu Ưng Bình là bà Nguyễn Thị Huệ, thông thạo chữ Hán, có nhiều bài thơ nôm được truyền tụng như "Nhớ quê", "Thượng cm hạ thú" (mỗi câu thơ đều có tên cầm và thú), "Xuất gia"...

Ưng Bình đỗ cử nhân hán học năm 1909; tốt nghiệp trường Quốc học Huế, am hiểu tường tận tiếng Pháp, đỗ đầu kỳ thi ký lục năm 1904. Giòng dõi "cành vàng lá ngọc", học hành đỗ đạt, ông ra làm quan, khi về hưu với hàm Thượng Thư, Hiệp Tá đại học sĩ. Tuy hưu trí, ông vẫn được cử làm Viện trưởng Viện Trung kỳ niên khóa 1939-1940, Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ Trung kỳ 1940-1945.

Làm quan suốt cả đời người nhưng Ưng Bình không màng danh lợi; Hơn thế nữa, ông sợ danh lợi, ghét nịnh hót, luồn cúi: "Ghét cụm bèo trôi che bóng nước, Giận chòm mây nổi khuất vành trăng"(1). Phẩm hàm, và chức tước của triều đình và Nhà nước Pháp bảo hộ ban cho, ông tỏ thái độ xem thường đến mức châm biếm. Thêm một chức tước đối với ông, giống như: "Hàng ghế nhích lên năm bảy tấc"; thăng một ngạch bậc quan trường chỉ là "Thẻ bài thêm lớn một vài ly”.

Làm quan, Ưng Bình chỉ giàu, rất giàu về bầu rượu túi thơ, câu hò điệu hát; đời sống vật chất lại khá thanh bạch: "Khoa danh có sn, quan quyền có; Ca cải không gì, ruộng đất không". Coi thường, khinh ghét danh lợi nhưng phải làm quan. Cho nên, khi được về hưu, Ưng Bình xem như là một hạnh phúc vì "Lưng tôm khỏi phi cúi lòn". Với khí tiết đó, ông lại nhìn đời quan trường của mình mà rất đỗi tự hào: "...Thuở ra sân khấu không làm rộn, Khi hạ vai tuồng ít hổ ngươi".

Những năm ở quan trường, trị nhậm nhiều nơi, có dịp đi đây đi đó, giao du rộng, cảnh quan đất nước trải mở dưới tầm mắt, sáng tác của Ưng Bình theo đó mà phát triển. Thể loại bao trùm là thơ cổ, xướng họa xoay quanh một chữ TÌNH: Tình nước non, tình người, tình bằng hữu thâm giao... Thời gian về hưu rỗi rảnh, mối quan hệ giữa nhà thơ với sinh hoạt dân gian có điều kiện gắn bó, nên bên cạnh thơ cổ, Ưng Bình phát triển mạnh sáng tác các thể loại hò ca, xướng hát. Đây cũng là thời kỳ nhà thơ tiếp xúc sâu với văn học dân gian, đồng thời nhiều sáng tác của nhà thơ được nhân dân lao động tiếp nhn, trở thành văn học dân gian.

Sự nghiệp sáng tác thơ ca của Ưng Bình rất phong phú, được lưu truyền khá rộng rãi. Về chữ Việt có trên 1000 bài, thơ chữ Hán có "Lộc Minh thi tập" gồm 227 bài; hát bộ có vở tuồng "Lộ Địch" dựa một phần theo cốt truyện Le Cid của nhà văn Pháp P.Corneille, được công diễn nhiều lần trong những năm 1937-1938, vở tuồng "Tào Lao" lấy cốt truyện cổ. Thơ ca, tuồng của ông, một số đã được xuất bản gồm Tình Thúc Giạ (1942); Đời Thúc Giạ (1961); Bán buồn mua vui (1954); Lộ Địch (xuất bản lần đầu năm 1936 - tái bản năm 1959). Tiếng Hát Sông Hương (1972).

Thơ ca của Ưng Bình có giá trị nhiều mặt về nội dung tư tưởng cũng như về nghệ thuật. Qua những bài như Vịnh hòn non bộ, Đêm trung thu thăm lu ông Hoàng, Chim khóc tổ, Cơm độc lập nước tự do, Bản đ nước Việt Nam, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Phan Thanh Giản, Phu xe đối đáp, Cám cảnh người hành khất, Ngày xuân ở Vỹ D, qua những bài đề vịnh danh lam thắng cảnh(2), Ưng Bình Thúc Giạ Thị tỏ rõ một tấm lòng đối với non sông đất nước, đối với dân nghèo thật đáng quý trọng.

Thơ ca của Ưng Bình nhìn chung phóng khoáng, tao nhã, hàm súc, hồn nhiên; một số bài, nhất là thơ chữ Hán, khá điêu luyện, ý và tứ thơ phảng phất hồn thơ thịnh Đường.

Thơ ca của Ưng Bình Thúc Giạ Thị có nhiều bài, nhất là những câu hò, điệu hát đã đi vào sinh hoạt của nhân dân xứ Huế từ mấy chục năm nay một cách thâm trầm, bền vững. Nội dung của những câu hò điệu hát đó được thể hiện bằng thứ văn chương bình dân, theo ngôn từ của nhân dân lao động, nhiều bài, nhiều câu đã khái quát hóa cuộc sống lao động, sản xuất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ đến cao độ được nhân dân tiếp nhận và truyền khẩu, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được của chị chèo đò, anh cầm chày giã gạo hoặc của khách du lịch đêm trăng vui chơi giải trí bằng thuyền trên dòng sông Hương đầy thơ mộng.

Mặt khác, Ưng Bình đã khéo vận dụng ca dao, tìm thi hứng từ văn học dân gian để sáng tác thơ ca. Với hai câu: "Lu ly na nước na dầu, Nửa thương cha mẹ na sầu nhơn duyên", ông đã làm bài thơ cổ động dùng hàng nội hóa; với câu ca dao: "Cua nói có, vọ nói không, cơ chi có miu giữa đồng, Hai ta th thốt kẻo lòng ngại nghi", ông đã làm bài thơ "Nói nên dạ ở không nên..."; từ câu ca dao: "Rồi mùa toóc rả rơm khô, Bạn v quê bạn biết mô mà tìm", ông đã làm nên bài thơ với những câu đầy tình tứ: "Kẻ đi người ở gây thương nhớ, Mông quạnh đồng không gẫm chán chê".

Ưng Bình còn rất sành, quý trọng và say mê ca nhạc dân tộc, nhất là về ca Huế, tuồng, nhiều làn điệu dân ca của cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Đối với dân ca miền Bắc, ông đánh giá:

"Cô đào Thanh thật sành ngh hát nói,
Cô đào Nghệ khéo kể khúc tỳ bà,
Chn Long Biên đủ điệu huyền ca,
Cô đào tơ hát giỏi, chị đào già vn hay".

Đối với dân ca miền Trung, nơi Ưng Bình đặt tất cả tâm hồn và gắn bó cuộc đời hào hoa phong nhã của mình, ông tán dương:

"Điệu hát dễ dàng là điệu hò khoan xứ Huế,
Không pha tiếng quyển, không nệ tiếng đàn,
Miễn làm sao giọng hát du dương,
Tình kia nghĩa nọ đôi đường phân minh"

Đối với dân ca miền Nam, nhiều người đương thời đã bài xích điệu cải lương, còn ông lại tán thưởng đề cao:

"Khổng Minh tọa lu là câu ca cổ bản,
Bạch Vân Tôn cát là điệu hát ngày xưa,
Bạn cải lương ra rạp đến giờ,
Nhạc Âu văn Á đổi cuộc cờ thêm vui."

Đối với các nghệ nhân, ông nhìn họ với tất cả tấm lòng ái mộ chân thành, rất mực tôn trọng. Nhiều bài thơ ca tặng nghệ nhân hoặc làm tại chỗ cho nghệ nhân trình bày, ông đã viết với bao lời hay, ý đẹp.

Thật ít có nhà thơ nào hiểu rõ, đề cao dân ca và ca sĩ dân gian như Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Ông xứng đáng với danh hiệu thi hào - nghệ sĩ mà người đời mến tặng.

Huế, Xuân Nhâm Thân
V.H
(TCSH48/03&4-1992)

 

-----------------

1. Những câu ngoặc kép trong bài này được trích từ Tuyển tập thơ ca Ưng Bình Thúc Giạ Thị, 450 trang, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1992 (đang ấn hành)

2. Xem “Ưng Bình Thúc Giạ Thị”: Thơ ca. Nhà xuất bản Thuận hóa, 450 trang, Huế, 1992.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.

  • Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật cho ra mắt bạn đọc một số đầu sách về sự kiện lịch sử này, về lịch sử kháng chiến Nam Bộ và về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của toàn dân Việt Nam.

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.

  • PHẠM XUÂN DŨNG

    Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.

  • Ý NHI 

    1.
    Một buổi chiều, khoảng cuối năm 1989, chúng tôi có cuộc gặp gỡ tại nhà Trần Thị Khánh Hội, trong một con hẻm rộng, quận Phú Nhuận.

  • TRẦN HOÀI ANH

    (Kỷ niệm 49 năm ngày mất cố Thi sĩ Nguyễn Bính 1966 - 2015)

  • DƯƠNG PHƯỚC THU  

    Kể từ lúc thị xã Huế được nâng lên cấp thành phố, cho đến khi người Nhật làm cuộc đảo chính hất chân người Pháp khỏi đông Dương vào ngày 9/3/1945 thì Huế vẫn là thành phố cấp 3, nhưng là thành phố của trung tâm chính trị, văn hóa, nơi đóng kinh đô cuối cùng của nhà nước quân chủ Việt Nam.

  • HỒ VĨNH  

    Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương là một thành viên trong hội thơ Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm hội chủ. Năm 1933 thi đàn đặt tên là Vỹ Hương thi xã, qua năm 1950 các thi hữu bắt đầu đổi tên Vỹ Hương thi xã thành Hương Bình thi xã.

  • Mùa xuân chiếm một ví trí quan trọng trong thơ Nguyễn Trãi. Xuân hiện lên bằng nhiều vẻ dáng khác nhau, được khắc họa bằng nhiều cung bậc khác nhau. Mỗi một bài thơ xuân như là một trang nhật kí và cảm xúc của cuộc đời thi nhân.

  • Đọc sách Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (ảnh, NXB Khoa học xã hội, Sách Khai tâm, quý 1/2015) của Hoàng Xuân Hãn là cách để “gặp lại” danh tướng Lý Thường Kiệt.

  • CAO HUY THUẦN

    Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.

  • NGUYÊN QUÂN

    Những lúc bứt thoát được những hệ lụy cuộc sống, tôi chỉ thích được lang thang lên mạng, mong bắt gặp một câu thơ, một dòng văn nào đó gần gũi với tâm trạng để ru dỗ mình bằng những phút giây đồng điệu.

  • Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Tế Hanh có dáng vẻ của một thi sĩ hơn cả, không phải chỉ bởi “đôi mắt nồng nàn lạ” (Hoài Thanh-Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam) mà còn là, hay chính là, bởi vẻ buồn ngơ ngác của ông, không phải chỉ trên vẻ mặt mà cả trong cách hành xử, ứng đối của ông với mọi người, mọi sự.

  • DA VÀNG

    (Đọc tập thơ Tùng Gai của Bạch Diệp, Nhà xuất bản Văn Học, 8/2014)

  • NGUYỄN VĂN NHẬT THÀNH

    Đồng hành cùng cuộc chuyển mình lớn lao của đất nước, văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến cuộc vật lộn âm thầm nhưng quyết liệt của bao văn nghệ sĩ trên hành trình tìm kiếm “sinh lộ” mới cho văn chương Việt.

  • Kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -2014), NXB Quân đội Nhân dân vừa ấn hành cuốn sách Về cội nguồn Quân đội Nhân dân Việt Nam.

  • YẾN THANH

    Nếu nói một cách đơn giản rằng Đông phương luận hiện đại là một khía cạnh của cả chủ nghĩa đế quốc lẫn chủ nghĩa thực dân thì sẽ ít ai có thể tranh cãi được. Tuy nhiên, nói như thế chưa đủ. Cần phải trình bày nó một cách có phân tích, có tính lịch sử”. [Edward Wadie Said, Đông phương luận, Nxb. Tri thức, 2014, tr.200]

  • NGUYỄN KHẮC VIỆN

    Với một Gavroche, Victor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ của cha anh, dẫu chỉ một vài cá nhân; thế mà sách vở về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắc nợ các em rất nhiều.

  • "Hạnh phúc tại tâm" là cuốn sách mới nhất của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa được dịch ra tiếng Việt. Sách chỉ ra hạnh phúc nằm trong bản thân mỗi con người, ở từng thời điểm chúng ta sống.

  • LÊ MINH PHONG

    Chúng ta không rũ bỏ được Thượng Đế
    Vì chúng ta vẫn tin vào ngữ pháp

                                  (Nietzsche)