Khúc ca đồng đội(1) - Khúc tri ân những người đi giữ nước từ xa

16:46 18/09/2009
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

Tập Khúc ca đồng đội - Ảnh: vietimes.com.vn

Tôi đã được đọc khá nhiều thơ của các nhà thơ quân đội, nhưng Phạm Sĩ Sáu viết cho đồng đội và cho chính mình theo tôi là một cung bậc khác, một giọng điệu khác hẳn, và cách lập ngôn cũng hoàn toàn khác:
                        Quê hương thì nhiều
                        Nhưng địa chỉ là một
                        Hỡi những người con gái mang trong tim mình địa chỉ hòm thư

                                    (Hòm thư chúng tôi thành phố Hồ Chí Minh)
                        Đất nước mình: hoà bình và súng nổ
                        Ở mặt trận nào cũng cần có lòng tin
                                    (Gởi bạn bè làm xong nghĩa vụ)

Đến “Hành khúc Tráng sĩ” - một cách “nhại” Tống Biệt Hành của Thâm Tâm - hình thức không mới, hình như trước anh cũng đã có người làm, nhưng:
                        Sông Dịch nào rộng bằng sông Mê Kông
                        Sóng Mê Kông sao bằng sóng ở trong lòng
                        (…)
                        Tráng sĩ chừ học tiếng Khơ me
                        Lắp bắp dăm câu: ô-rơ-cun, Thamêch
                        (…)
                        Tráng sĩ lội sông, tráng sĩ làm cầu
                        Tráng sĩ gặt lúa đồng bằng, mót củi rừng sâu
                        Tráng sĩ đi là đi tình nguyện…

Thì chỉ có Phạm Sĩ Sáu đến tháng 3.1981 mới viết được những câu thơ như thế, và cũng chính Phạm Sĩ Sáu đến tháng 12.1984 mới viết câu thơ:
                        Đi giữ nước mà mang trong lòng - nhớ nước
                                    (Trước đền Angkor Wat)

Ngày xưa ông cha ta những lần đi làm sứ đã từng viết những bài thơ nhớ nước nhớ nhà đến nao lòng, hoặc như Tế Hanh:
                        Anh xa nước nên yêu thêm nước
                                    (Bài thơ tình ở Hàng Châu - 1956)
Cho thấy nỗi nhớ nước của những chàng trai Việt đi giữ nước ở chiến trường xa càng nhức nhối, da diết xiết bao!

Thói thường người ra trận chiến đấu, tối đâu là nhà, ngả đâu là giường! Cha mẹ của ai cũng thành cha mẹ của mình, anh chị em ruột thịt của ai cũng thành anh chị em ruột thịt của mình, quê hương của ai cũng là quê hương của mình… Nhưng những chàng trai nước Việt những năm 1979-1989 đi chiến đấu giữ nước mà ở trên quê hương của ai chứ không phải quê hương mình, cha mẹ anh chị em ruột thịt của ai chứ không phải của mình và kỷ luật thép không cho phép anh để mắt vương vấn tình trai với những cô gái bản xứ dẫu các cô nàng có vì niềm khâm phục và lòng biết ơn cứu tử sâu sắc mà chân thành dâng tặng trái tim cho anh… Và trong điều kiện đó, kỷ luật quân đội buộc anh phải đối xử với các bậc cao niên như đối với cha mẹ của mình, với những thanh niên phụ nữ thiếu nhi ở đấy như đối với những người anh chị em ruột thịt của mình, phải hết lòng chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ họ, không cho bọn tàn quân polpôt lẻn vào gây đau thương mất mát cho họ một lần nữa, nếu có mất mát thì chính các anh phải hứng chịu đầu tiên:

                        Ở trong dân cũng nhiều lần máu đổ
                        Vã mồ hôi và thao thức những đêm dài
                        (…)
                        Nhà thiếu đàn ông, đồng xanh cỏ mọc
                        Chặt cây, đánh tranh, dựng lớp, đắp đường

Tiêu chuẩn gạo mỗi ngày bớt một nửa - nhường cơm vào rừng sâu tìm giúp dân đàn trâu bò quên ngõ
                        (…)
                        Học đi những đường cày, học đánh xe trâu
                        Gặp nhà sư phải biết cách cúi chào
                        Lên nhà sàn không xoa đầu trẻ nít
                        Cuộc sống mỗi ngày như sách lần trang
                        Có ngày không kịp nói một câu tiếng Việt…

                                    (Kỷ niệm về dân)

Phạm Sĩ Sáu đã nói hộ cho bao đồng đội cùng một thời với anh đi đánh đuổi bọn giặc đến quấy nhiễu ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc, thừa thắng các anh truy quét chúng đến tận sào huyệt - nơi bọn diệt chủng Polpôt đang tận diệt đồng chủng của chính mình. Bao chàng trai nước Việt đã ngã xuống trên trận tuyến đó, họ hầu hết còn rất trẻ, nhiều người trong họ chưa từng được biết làn môi của một người con gái:
                        Dẫu có đứa chưa từng ôm một người con gái
                        Chưa từng yêu nên nói chuyện tình yêu: nói đại
                        (…)

Bị phát hiện bèn mở miệng cười khà:
                        - Tao không biết thì rồi tao sẽ biết.
                        Và… mày hy sinh không còn thời gian để biết.

                                    (Điểm danh đồng đội)

Chúng ta từng gọi đội quân tình nguyện Việt Nam một thời trên nước bạn là những người lính tiên phong đi làm lại cuộc cách mạng bị phản bội, là đi làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, là đi giúp một dân tộc thoát khỏi bàn tay của bọn đao phủ diệt chủng, là đi bảo vệ nước ở nơi xa nước…. Tất cả những cách gọi cách nói ấy, cách nào cũng đúng cả, và nếu gộp tất cả những cách gọi cách nói ấy lại thì càng đúng hơn, và chỉ có thể làm như thế mới thấy hết được vinh dự và trách nhiệm nặng nề đặt lên vai những chàng trai Việt thuở ấy, mới cảm nhận được nỗi niềm đau đáu nhớ nước khôn nguôi, bởi chung quanh họ lúc nầy bầu trời mặt đất ngôn ngữ tập quán đều xa lạ:

                        Giữ nước từ xa, trời đất lạ
                                     (Ở đỉnh 400)
                        Đất trời Cămpuchia hai mùa đều nghịch
                        Khô đến cháy rừng và mưa đến thối cây
                        Từ Nimít chúng tôi vào PhnômMêlai
                        Nơi rừng độc voi quay đầu trở lại
                        Rừng mênh mông mà mọi con đường đều giăng đầy mìn bẫy

                        Xoi mở đường - lính trinh sát bộ binh
                        Rừng đón chúng tôi bằng cơn sốt triền miên
                        Sốt rét quật trăm người không chừa một
                        Đi lấy nước, ngồi đáy giếng sâu hứng chờ từng giọt
                        Một giọt rơi ra đều gợi được một nét cười
                        (…)
                        Hạt nước mang lên với đồng đội chốt điểm cao
                        Đều thấm máu bao bạn bè vận tải

Hy sinh, gian khổ, tận cùng gian khổ vẫn giữ được nụ cười trên môi, vẫn hăng hái tiến lên các cứ điểm mới:

                        Đồng đội tôi đã đi cùng cơn khát
                                    (Trước đền Angkor Wat)
                        Giữa cái nắng như thiêu thèm một chùm me đất
                        Me hái được rồi mà bạn có còn đâu

                                    (Chia tay đồng đội)
                        Những Dũng những Hoàng những Trí những Sinh…
                        Chắc các bạn chưa yên lòng nhắm mắt
                        Biên giới quê hương vẫn thập thò bóng giặc
                        Thắp trong lòng chúng tôi ngọn lửa những đồng đội đi xa
                                    (Chia tay đồng đội)

Thơ Phạm Sĩ Sáu thống thiết gọi tên những đồng đội đã ngã xuống và những đồng đội còn lại đi tiếp chặng đường, vừa mang theo trong tim ngọn lửa nhiệt tình hừng hực của người đã khuất.
                        Chưa có phù điêu tạc dáng những chàng trai
                        Đi giữ nước mà mang trong lòng - nhớ nước
                        Bao thế hệ hành quân ra phía trước
                        Có thế hệ nào giữ nước từ xa không?
                        Câu hỏi làm tôi thổn thức nỗi lòng.
                                    (Trước đền Angkor Wat)

Trong nỗi niềm đó cái thường trực trong tim những người lính ra trận còn có bóng dáng những người thân yêu nhất: cha mẹ vợ con và người yêu – nên nỗi nhớ nước nhớ nhà càng da diết hơn:
                        Ở núi nhớ sông
                        Ở rừng nhớ biển
                        Ở nơi đâu cũng thấy nhớ nhà
                        Thằng Dần nhớ con đôi mắt trũng sâu
                        Thằng Huy nhớ vợ đêm ôm chầm đồng đội
                                    (Chia tay đồng đội)

Nhớ nhung đầy ắp vậy nhưng khi xung trận tâm thế anh bộ đội Việt Nam nhự tựa lông hồng:
                        Nói với nhau có câu chữ nào kiêng
                        Khi xuất kích nhắc nhau làm di chúc
                        Có bà chị, cô em nào nhớ khai cho nghiêm túc
                        Để rủi mà… còn chăm sóc đến nơi
                        Ôi! bọn chúng ta những thằng không cần văn tự cũng bán trời
                        Nói là bán chứ muốn mua tất cả
                        Sẵn sàng đem sinh mạng ra trả giá
                        Để tổ quốc thân yêu mãi mãi hoà bình
                                    (Chia tay đồng đội)

Mục đích của người ra trận rõ ràng đến mức không thể nào rõ hơn. Và điều họ tếu táo với nhau đã trở thành sự thật, nhưng họ không chỉ để lại những người chị, người em gái mà còn để lại người yêu.
                        Sao bạn không về nữa, Sơn ơi?!
                        (…)
                        Khi nhận tin bạn hy sinh lòng tôi như có lửa
                        Sẽ nói như thế nào cho Loan hiểu hả Sơn?
                                    (Một bài thơ tặng bạn, Sơn ơi)

Thật không mới mẻ gì khi nhắc đến nỗi đau của những goá phụ ở một đất nước có bao nhiêu năm dựng nước thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh, nhưng ở cái mốc lịch sử 30.04.1975 nhiều người đã thở phào mà nghĩ rằng rồi đây sẽ không còn cảnh sinh ly tử biệt vì chiến tranh nữa (!). Nhưng chỉ vài năm sau đó những cô gái Việt Nam phải nén lòng hát bài ca “Em vẫn đợi: (theo ý thơ của K.Simônôp) và năm 1986 Phạm Sĩ Sáu viết:

                        Ai đã một lần làm vợ người đi giữ nước
                        Mới hiểu cơn đau ngầm goá phụ trẻ đơn côi
                        Những Loan, Vân, Điệp, Mỵ, Hạnh, Khôi…
                        Xót xa ấy làm sao chúng tôi chia sẻ được
                        Chỉ báo tin thôi con nước cũng tràn bờ.

Rồi Phạm Sĩ Sáu nhức nhối thốt kêu:
                        Thành phố mình dư nhiều bài hát bâng quơ
                        Mà thiếu một khúc ca vinh danh người quả phụ
                                    (Trường ca ra đi từ thành phố)

Chẳng cần bình luận gì thêm. Cảm ơn người thơ chiến sĩ Phạm Sĩ Sáu, anh đã nói hộ bao điều cần nói cho những đồng đội đã ngã xuống, cho những người trở về không lành lặn, và những người lành lặn bên ngoài nhưng tâm hồn đầy thương tích - như những vết thương không bao giờ lành trong trái tim của những người quả phụ; còn với riêng tôi Phạm Sĩ Sáu là một đồng đội đặc biệt. Trước hết là vì anh với tôi cùng một số văn nghệ sĩ khác đã viết về những chiến sĩ tình nguyện Việt Nam trên nước bạn, viết về Cămpuchia hồi sinh sau họa diệt chủng của Polpôt, và viết về tội ác của tập đoàn Polpôt. Có thể nói chúng tôi cùng đi ra mặt trận phía Tây Nam một lúc, nhưng lúc bấy giờ với tư cách người chiến sĩ cầm súng trực tiếp chiến đấu, Phạm Sĩ Sáu phải đi lên phía trước, phải đóng quân và chuyển quân qua nhiều cứ điểm, còn tôi chủ yếu bám sát Siêmriệp Ôtđômiênchay và những địa phương hai bên trục quốc lộ 6 và quốc lộ 5. Đó là những nơi mà Phạm Sĩ Sáu đã từng qua, những ngày chúng tôi không gặp nhau. Tôi không ở trong quân ngũ, nhưng ngày đó cũng mấy lần suýt mất mạng. Nếu điều không may ấy xảy ra thì giờ đây tôi không được viết những dòng nầy về Phạm Sĩ Sáu, cả Phạm Sĩ Sáu nếu không may mắn được sống sót thì giờ đây không biết ai sẽ viết “Khúc ca đồng đội”? Ai sẽ đọc với ai? Và ai khóc cùng ai? Cũng nên mở ngoặc một chút rằng từ sau ngày 26.9.1989 khi người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam cuối cùng rời khỏi Cămpuchia để trở về nước của mình thì Phạm Sĩ Sáu đã ba lần trở lại Cămpuchia với tư cách hướng dẫn viên du lịch, lần gần đây tháng 2.2009 anh đến dự hội nghị nhà văn ba nước Đông Dương và nhận giải thưởng văn học Sông MêKông. Phát biểu sau lúc nhận giải Phạm Sĩ Sáu đã khóc vì nhớ thương đồng đội của mình. Giáo sư triết học Khieu Kosal ngồi cạnh tôi trong hội trường cũng bật khóc. Khieu Kosal được thoát chết nhờ bộ đội Việt Nam kịp đến giải phóng, còn mẹ và em trai ông đã không đợi được đến thời điểm đó. Lúc nầy thì tôi có thể lý giải được vì sao tôi không cầm được nước mắt khi nhìn thấy Phạm Sĩ Sáu đọc khúc ca đồng đội bên bờ Sông MêKông. Ngày ấy chúng tôi nuốt nước mắt vào trong khi vuốt mắt cho đồng đội để giờ đây cùng vỡ oà trong niềm hạnh phúc họp mặt mà thiếu mất những đồng đội thân yêu!

Mỗi nhà văn có một quê hương để sống và viết, một mảnh đất tình người để khai thác suốt đời văn. Với Phạm Sĩ Sáu mảnh đất tình người ấy là biên giới Tây Nam, là Cămpuchia những ngày còn bóng giặc, là tình đồng đội thắm thiết như màu cờ Tổ quốc, như màu hoa khiến anh và đồng đội sững sờ khi chợt bắt gặp trước lúc vào trận:
                       
                        Trên đường ra cứ Âm-pin
                        Cơn khát chực chờ gõ cửa
                        Giữa nắng bốn bề trút lửa
                        Một chùm hoa đỏ lung linh
                       
                        Đồng đội tôi mải mê nhìn
                        Màu đỏ, đỏ như thôi thúc
                        (…)
                        Có một phút giây bình yên
                        Trước giờ bước vào trận đánh
                        Mỗi người cảm thấy bên cạnh
                        Hoa đỏ nhìn mình trang nghiêm.

H.K.L
(246/08-09)


--------------------
(1) Thơ Phạm Sĩ Sáu - Nhà xuất bản Trẻ 2008.


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.