Khúc ca đồng đội(1) - Khúc tri ân những người đi giữ nước từ xa

16:46 18/09/2009
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

Tập Khúc ca đồng đội - Ảnh: vietimes.com.vn

Tôi đã được đọc khá nhiều thơ của các nhà thơ quân đội, nhưng Phạm Sĩ Sáu viết cho đồng đội và cho chính mình theo tôi là một cung bậc khác, một giọng điệu khác hẳn, và cách lập ngôn cũng hoàn toàn khác:
                        Quê hương thì nhiều
                        Nhưng địa chỉ là một
                        Hỡi những người con gái mang trong tim mình địa chỉ hòm thư

                                    (Hòm thư chúng tôi thành phố Hồ Chí Minh)
                        Đất nước mình: hoà bình và súng nổ
                        Ở mặt trận nào cũng cần có lòng tin
                                    (Gởi bạn bè làm xong nghĩa vụ)

Đến “Hành khúc Tráng sĩ” - một cách “nhại” Tống Biệt Hành của Thâm Tâm - hình thức không mới, hình như trước anh cũng đã có người làm, nhưng:
                        Sông Dịch nào rộng bằng sông Mê Kông
                        Sóng Mê Kông sao bằng sóng ở trong lòng
                        (…)
                        Tráng sĩ chừ học tiếng Khơ me
                        Lắp bắp dăm câu: ô-rơ-cun, Thamêch
                        (…)
                        Tráng sĩ lội sông, tráng sĩ làm cầu
                        Tráng sĩ gặt lúa đồng bằng, mót củi rừng sâu
                        Tráng sĩ đi là đi tình nguyện…

Thì chỉ có Phạm Sĩ Sáu đến tháng 3.1981 mới viết được những câu thơ như thế, và cũng chính Phạm Sĩ Sáu đến tháng 12.1984 mới viết câu thơ:
                        Đi giữ nước mà mang trong lòng - nhớ nước
                                    (Trước đền Angkor Wat)

Ngày xưa ông cha ta những lần đi làm sứ đã từng viết những bài thơ nhớ nước nhớ nhà đến nao lòng, hoặc như Tế Hanh:
                        Anh xa nước nên yêu thêm nước
                                    (Bài thơ tình ở Hàng Châu - 1956)
Cho thấy nỗi nhớ nước của những chàng trai Việt đi giữ nước ở chiến trường xa càng nhức nhối, da diết xiết bao!

Thói thường người ra trận chiến đấu, tối đâu là nhà, ngả đâu là giường! Cha mẹ của ai cũng thành cha mẹ của mình, anh chị em ruột thịt của ai cũng thành anh chị em ruột thịt của mình, quê hương của ai cũng là quê hương của mình… Nhưng những chàng trai nước Việt những năm 1979-1989 đi chiến đấu giữ nước mà ở trên quê hương của ai chứ không phải quê hương mình, cha mẹ anh chị em ruột thịt của ai chứ không phải của mình và kỷ luật thép không cho phép anh để mắt vương vấn tình trai với những cô gái bản xứ dẫu các cô nàng có vì niềm khâm phục và lòng biết ơn cứu tử sâu sắc mà chân thành dâng tặng trái tim cho anh… Và trong điều kiện đó, kỷ luật quân đội buộc anh phải đối xử với các bậc cao niên như đối với cha mẹ của mình, với những thanh niên phụ nữ thiếu nhi ở đấy như đối với những người anh chị em ruột thịt của mình, phải hết lòng chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ họ, không cho bọn tàn quân polpôt lẻn vào gây đau thương mất mát cho họ một lần nữa, nếu có mất mát thì chính các anh phải hứng chịu đầu tiên:

                        Ở trong dân cũng nhiều lần máu đổ
                        Vã mồ hôi và thao thức những đêm dài
                        (…)
                        Nhà thiếu đàn ông, đồng xanh cỏ mọc
                        Chặt cây, đánh tranh, dựng lớp, đắp đường

Tiêu chuẩn gạo mỗi ngày bớt một nửa - nhường cơm vào rừng sâu tìm giúp dân đàn trâu bò quên ngõ
                        (…)
                        Học đi những đường cày, học đánh xe trâu
                        Gặp nhà sư phải biết cách cúi chào
                        Lên nhà sàn không xoa đầu trẻ nít
                        Cuộc sống mỗi ngày như sách lần trang
                        Có ngày không kịp nói một câu tiếng Việt…

                                    (Kỷ niệm về dân)

Phạm Sĩ Sáu đã nói hộ cho bao đồng đội cùng một thời với anh đi đánh đuổi bọn giặc đến quấy nhiễu ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc, thừa thắng các anh truy quét chúng đến tận sào huyệt - nơi bọn diệt chủng Polpôt đang tận diệt đồng chủng của chính mình. Bao chàng trai nước Việt đã ngã xuống trên trận tuyến đó, họ hầu hết còn rất trẻ, nhiều người trong họ chưa từng được biết làn môi của một người con gái:
                        Dẫu có đứa chưa từng ôm một người con gái
                        Chưa từng yêu nên nói chuyện tình yêu: nói đại
                        (…)

Bị phát hiện bèn mở miệng cười khà:
                        - Tao không biết thì rồi tao sẽ biết.
                        Và… mày hy sinh không còn thời gian để biết.

                                    (Điểm danh đồng đội)

Chúng ta từng gọi đội quân tình nguyện Việt Nam một thời trên nước bạn là những người lính tiên phong đi làm lại cuộc cách mạng bị phản bội, là đi làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, là đi giúp một dân tộc thoát khỏi bàn tay của bọn đao phủ diệt chủng, là đi bảo vệ nước ở nơi xa nước…. Tất cả những cách gọi cách nói ấy, cách nào cũng đúng cả, và nếu gộp tất cả những cách gọi cách nói ấy lại thì càng đúng hơn, và chỉ có thể làm như thế mới thấy hết được vinh dự và trách nhiệm nặng nề đặt lên vai những chàng trai Việt thuở ấy, mới cảm nhận được nỗi niềm đau đáu nhớ nước khôn nguôi, bởi chung quanh họ lúc nầy bầu trời mặt đất ngôn ngữ tập quán đều xa lạ:

                        Giữ nước từ xa, trời đất lạ
                                     (Ở đỉnh 400)
                        Đất trời Cămpuchia hai mùa đều nghịch
                        Khô đến cháy rừng và mưa đến thối cây
                        Từ Nimít chúng tôi vào PhnômMêlai
                        Nơi rừng độc voi quay đầu trở lại
                        Rừng mênh mông mà mọi con đường đều giăng đầy mìn bẫy

                        Xoi mở đường - lính trinh sát bộ binh
                        Rừng đón chúng tôi bằng cơn sốt triền miên
                        Sốt rét quật trăm người không chừa một
                        Đi lấy nước, ngồi đáy giếng sâu hứng chờ từng giọt
                        Một giọt rơi ra đều gợi được một nét cười
                        (…)
                        Hạt nước mang lên với đồng đội chốt điểm cao
                        Đều thấm máu bao bạn bè vận tải

Hy sinh, gian khổ, tận cùng gian khổ vẫn giữ được nụ cười trên môi, vẫn hăng hái tiến lên các cứ điểm mới:

                        Đồng đội tôi đã đi cùng cơn khát
                                    (Trước đền Angkor Wat)
                        Giữa cái nắng như thiêu thèm một chùm me đất
                        Me hái được rồi mà bạn có còn đâu

                                    (Chia tay đồng đội)
                        Những Dũng những Hoàng những Trí những Sinh…
                        Chắc các bạn chưa yên lòng nhắm mắt
                        Biên giới quê hương vẫn thập thò bóng giặc
                        Thắp trong lòng chúng tôi ngọn lửa những đồng đội đi xa
                                    (Chia tay đồng đội)

Thơ Phạm Sĩ Sáu thống thiết gọi tên những đồng đội đã ngã xuống và những đồng đội còn lại đi tiếp chặng đường, vừa mang theo trong tim ngọn lửa nhiệt tình hừng hực của người đã khuất.
                        Chưa có phù điêu tạc dáng những chàng trai
                        Đi giữ nước mà mang trong lòng - nhớ nước
                        Bao thế hệ hành quân ra phía trước
                        Có thế hệ nào giữ nước từ xa không?
                        Câu hỏi làm tôi thổn thức nỗi lòng.
                                    (Trước đền Angkor Wat)

Trong nỗi niềm đó cái thường trực trong tim những người lính ra trận còn có bóng dáng những người thân yêu nhất: cha mẹ vợ con và người yêu – nên nỗi nhớ nước nhớ nhà càng da diết hơn:
                        Ở núi nhớ sông
                        Ở rừng nhớ biển
                        Ở nơi đâu cũng thấy nhớ nhà
                        Thằng Dần nhớ con đôi mắt trũng sâu
                        Thằng Huy nhớ vợ đêm ôm chầm đồng đội
                                    (Chia tay đồng đội)

Nhớ nhung đầy ắp vậy nhưng khi xung trận tâm thế anh bộ đội Việt Nam nhự tựa lông hồng:
                        Nói với nhau có câu chữ nào kiêng
                        Khi xuất kích nhắc nhau làm di chúc
                        Có bà chị, cô em nào nhớ khai cho nghiêm túc
                        Để rủi mà… còn chăm sóc đến nơi
                        Ôi! bọn chúng ta những thằng không cần văn tự cũng bán trời
                        Nói là bán chứ muốn mua tất cả
                        Sẵn sàng đem sinh mạng ra trả giá
                        Để tổ quốc thân yêu mãi mãi hoà bình
                                    (Chia tay đồng đội)

Mục đích của người ra trận rõ ràng đến mức không thể nào rõ hơn. Và điều họ tếu táo với nhau đã trở thành sự thật, nhưng họ không chỉ để lại những người chị, người em gái mà còn để lại người yêu.
                        Sao bạn không về nữa, Sơn ơi?!
                        (…)
                        Khi nhận tin bạn hy sinh lòng tôi như có lửa
                        Sẽ nói như thế nào cho Loan hiểu hả Sơn?
                                    (Một bài thơ tặng bạn, Sơn ơi)

Thật không mới mẻ gì khi nhắc đến nỗi đau của những goá phụ ở một đất nước có bao nhiêu năm dựng nước thì có bấy nhiêu cuộc chiến tranh, nhưng ở cái mốc lịch sử 30.04.1975 nhiều người đã thở phào mà nghĩ rằng rồi đây sẽ không còn cảnh sinh ly tử biệt vì chiến tranh nữa (!). Nhưng chỉ vài năm sau đó những cô gái Việt Nam phải nén lòng hát bài ca “Em vẫn đợi: (theo ý thơ của K.Simônôp) và năm 1986 Phạm Sĩ Sáu viết:

                        Ai đã một lần làm vợ người đi giữ nước
                        Mới hiểu cơn đau ngầm goá phụ trẻ đơn côi
                        Những Loan, Vân, Điệp, Mỵ, Hạnh, Khôi…
                        Xót xa ấy làm sao chúng tôi chia sẻ được
                        Chỉ báo tin thôi con nước cũng tràn bờ.

Rồi Phạm Sĩ Sáu nhức nhối thốt kêu:
                        Thành phố mình dư nhiều bài hát bâng quơ
                        Mà thiếu một khúc ca vinh danh người quả phụ
                                    (Trường ca ra đi từ thành phố)

Chẳng cần bình luận gì thêm. Cảm ơn người thơ chiến sĩ Phạm Sĩ Sáu, anh đã nói hộ bao điều cần nói cho những đồng đội đã ngã xuống, cho những người trở về không lành lặn, và những người lành lặn bên ngoài nhưng tâm hồn đầy thương tích - như những vết thương không bao giờ lành trong trái tim của những người quả phụ; còn với riêng tôi Phạm Sĩ Sáu là một đồng đội đặc biệt. Trước hết là vì anh với tôi cùng một số văn nghệ sĩ khác đã viết về những chiến sĩ tình nguyện Việt Nam trên nước bạn, viết về Cămpuchia hồi sinh sau họa diệt chủng của Polpôt, và viết về tội ác của tập đoàn Polpôt. Có thể nói chúng tôi cùng đi ra mặt trận phía Tây Nam một lúc, nhưng lúc bấy giờ với tư cách người chiến sĩ cầm súng trực tiếp chiến đấu, Phạm Sĩ Sáu phải đi lên phía trước, phải đóng quân và chuyển quân qua nhiều cứ điểm, còn tôi chủ yếu bám sát Siêmriệp Ôtđômiênchay và những địa phương hai bên trục quốc lộ 6 và quốc lộ 5. Đó là những nơi mà Phạm Sĩ Sáu đã từng qua, những ngày chúng tôi không gặp nhau. Tôi không ở trong quân ngũ, nhưng ngày đó cũng mấy lần suýt mất mạng. Nếu điều không may ấy xảy ra thì giờ đây tôi không được viết những dòng nầy về Phạm Sĩ Sáu, cả Phạm Sĩ Sáu nếu không may mắn được sống sót thì giờ đây không biết ai sẽ viết “Khúc ca đồng đội”? Ai sẽ đọc với ai? Và ai khóc cùng ai? Cũng nên mở ngoặc một chút rằng từ sau ngày 26.9.1989 khi người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam cuối cùng rời khỏi Cămpuchia để trở về nước của mình thì Phạm Sĩ Sáu đã ba lần trở lại Cămpuchia với tư cách hướng dẫn viên du lịch, lần gần đây tháng 2.2009 anh đến dự hội nghị nhà văn ba nước Đông Dương và nhận giải thưởng văn học Sông MêKông. Phát biểu sau lúc nhận giải Phạm Sĩ Sáu đã khóc vì nhớ thương đồng đội của mình. Giáo sư triết học Khieu Kosal ngồi cạnh tôi trong hội trường cũng bật khóc. Khieu Kosal được thoát chết nhờ bộ đội Việt Nam kịp đến giải phóng, còn mẹ và em trai ông đã không đợi được đến thời điểm đó. Lúc nầy thì tôi có thể lý giải được vì sao tôi không cầm được nước mắt khi nhìn thấy Phạm Sĩ Sáu đọc khúc ca đồng đội bên bờ Sông MêKông. Ngày ấy chúng tôi nuốt nước mắt vào trong khi vuốt mắt cho đồng đội để giờ đây cùng vỡ oà trong niềm hạnh phúc họp mặt mà thiếu mất những đồng đội thân yêu!

Mỗi nhà văn có một quê hương để sống và viết, một mảnh đất tình người để khai thác suốt đời văn. Với Phạm Sĩ Sáu mảnh đất tình người ấy là biên giới Tây Nam, là Cămpuchia những ngày còn bóng giặc, là tình đồng đội thắm thiết như màu cờ Tổ quốc, như màu hoa khiến anh và đồng đội sững sờ khi chợt bắt gặp trước lúc vào trận:
                       
                        Trên đường ra cứ Âm-pin
                        Cơn khát chực chờ gõ cửa
                        Giữa nắng bốn bề trút lửa
                        Một chùm hoa đỏ lung linh
                       
                        Đồng đội tôi mải mê nhìn
                        Màu đỏ, đỏ như thôi thúc
                        (…)
                        Có một phút giây bình yên
                        Trước giờ bước vào trận đánh
                        Mỗi người cảm thấy bên cạnh
                        Hoa đỏ nhìn mình trang nghiêm.

H.K.L
(246/08-09)


--------------------
(1) Thơ Phạm Sĩ Sáu - Nhà xuất bản Trẻ 2008.


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.