Hương một loài hoa

14:51 04/03/2010
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật - Ảnh: nguyentrongtao.vnweblogs.com

Bài thơ "Hoa mai và mùa xuân" của Xuân Hoàng kể lại sự tích về một loại hoa: Ngày xưa, trên núi rất xa có một loài hoa nở và thơm trong lặng im của cây rừng. Hoa cứ thơm như thế không ai hay biết, ngỏ hầu chỉ riêng trời đất và hoa biết nhau thôi. Nhưng rồi vào một mùa xuân, có một nhà thơ gặp hoa trong núi. Yêu quý vẻ đẹp và mùi hương dịu dàng ấy, nhà thơ chờ mùa xuân đi qua, hoa kết hạt, rồi đem giống về xuôi. Từ ấy mới có thêm giống mai vàng...

Kể đến đây người làm thơ kết thúc bài thơ của mình bằng bốn câu thơ đột ngột:
            Tôi gặp mai vàng giữa Huế duyên
            Tự nhiên nhớ sự tích hoa quen
            Vì nhau, xin viết bài thơ lạ
            Kể chuyện hoa từ gương mặt em...

Cái gì đã giúp anh làm bài thơ này? Chân đế của bài ở đâu? Trong lúc tên bài thơ mang ý nghĩa khái quát: Hoa mai và mùa xuân. Phải đọc nhiều lần. Cái đẹp cũng cần chiêm ngưỡng nhiều lần mới hiểu một cách sâu sắc chân giá trị của nó, mới phát hiện thêm nhiều khía cạnh khác của nghệ thuật.Bài thơ mang "duyên thầm" kín đáo. Đó là cái tình của tác giả sau những câu chữ, những tình tiết, những sự việc mô tả. Cái tình bắt rễ từ tâm hồn đầy rung cảm của người làm thơ. Phải nói, nếu không "vì nhau" thì không có cảm xúc và không thể có sản phẩm nghệ thuật, không có thơ! Bởi con người, cuộc sống luôn ở bên ta và hơn thế, con người, cuộc sống ấy đang đứng trước mùa xuân tươi xanh. Phải yêu hết lòng mới có thể thấy hết vẻ đẹp tiềm ẩn trong đời sống hàng ngày. Tình cảm thẩm mỹ sẽ nâng ta lên, cho ta cách nhìn, nghĩ, cảm mới, cho cả sự rung động mãnh liệt.

Xuân Hoàng viết:

            Kể chuyện hoa từ gương mặt em...

Cái cớ
và cũng là chân đế "vì nhau" của bài thơ bắt đầu từ nơi em, nơi hoa, từ cuộc sống có em, từ mùa xuân duyên nợ của Huế. Cuộc sống như sợi dây đàn chỉ cần bàn tay người nghệ sĩ chạm khẽ, sẽ rung lên muôn điệu. Và, mỗi khi âm vang sôi động của đời sống trào ra đầu ngọn bút, nhà thơ cần phải biết dừng lại đúng lúc, đó là sự tỉnh táo tài nghệ của người làm thơ. Để bài thơ kéo ra lan man, để âm vang đời sống vang lên một cách xô bồ thiêú chắt lọc, bài thơ sa vào tình trạng dễ dãi, như đời thường tự nhiên vốn có.

Cứ ngỡ bài thơ không còn gì để bàn nữa. Hãy quay lại: Giá như không có khách thơ gặp hoa trong núi (theo lối tư duy huyền thoại) thì sẽ không có mai vàng - loài hoa khi xuân về mới nở. Nếu không có mùa hạ nắng cháy, mùa đông rét cắt da, cây cối trơ trọi chắc chắn không thể có một mùa xuân ấm áp, kỳ diệu thế kia. Mùa xuân như "gương mặt em" đẹp, chứa chan sức sống. Cái lý do bài thơ lạ của anh ra đời không thể nào khác hơn. Người đọc cũng dễ chấp nhận tên bài thơ: Hoa mai và mùa xuân.

Và nữa, tôi muốn nói rằng, bài thơ này như anh viết:
            Chỉ thơm trong sắc lặng thinh. Và
            Sẽ thơm như thế, không ai biết
            Trong núi, như trời, đất với hoa....

Hoa thơm là vậy! Thơ hay là vậy! Không ồn ào, nó lặng lẽ thả hồn mình vào cuộc đời, tự nguyện hy sinh cho cuộc đời, chứ không phải cuộc đời đặt nó vào tủ kính để tôn thờ. Đương nhiên cuộc đời sẽ nhận ra giá trị của nó, cũng như người ta sẽ nhận ra hương của một loài hoa dù mọc ở đâu chăng nữa.


XUÂN HOÀNG

Mai vàng và mùa xuân


Mai nở ngày xưa trong núi xa
Chỉ thơm trong sắc lặng thinh. Và
sẽ thơm như thế, không ai biết
trong núi, như trời, đất, với hoa

Bỗng một ngày xuân, một khách thơ
gặp hoa trong núi, ngẩn ngơ chờ
mai già đến độ ươm nên hạt
mang giống về xuôi, tự bấy giờ

Tôi gặp mai vàng giữa Huế duyên
bỗng nhiên nhớ sự tích hoa quen
vì nhau, xin viết bài thơ lạ
kể chuyện hoa từ gương mặt em.
                                               
Xuân 1982

H.V.T
(132/02-2000)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.