TRƯỜNG PHƯỚC
Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.
Ảnh: internet
Vùng đất Thừa Thiên Huế cũng đã có những thành tựu sau 40 năm hòa bình. Vị thế trung tâm văn hóa được tiếp tục khẳng định khi Huế đã được mệnh danh là thành phố Festival, thành phố văn hóa Asean, thành phố môi trường xanh sạch đẹp… Và dĩ nhiên, vùng đất này còn phải nỗ lực nhiều hơn mới có thể có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi nhìn lại thành quả một chặng đường, có những điểm nhấn thành công mà ai cũng đồng tình: gìn giữ phát huy giá trị văn hóa - môi trường Huế, phát triển trung tâm y tế chuyên sâu và hệ thống giao thông nối liền rừng - biển.
Huế - thành phố văn hóa Asean, thành phố Festival
Sau 40 năm xây dựng và phát triển, Huế trở thành một thành phố sinh thái - di sản - lịch sử. Việc các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Thừa Thiên Huế kiên quyết duy trì mục tiêu phát triển bền vững, thân thiện với môi trường đã khiến Huế luôn được chăm chút sửa sang, luôn xanh - sạch - đẹp. Huế trở thành thành phố gần gũi với thiên nhiên, đây chính là mơ ước của nhiều đô thị lớn trên thế giới trong thời đại ô nhiễm môi trường như bây giờ. Trong quá khứ, người dân đã từng kiến nghị không cho Công ty xi-măng Lukvaxi xây khách sạn chòi lấn sông Hương, người dân đấu tranh không cho nhà đầu tư nước ngoài xây khách sạn trên Đồi Vọng Cảnh, người dân đề nghị Khách sạn Hoàng Đế không được xây cao quá 14 tầng vì lo ảnh hưởng đến sông Hương ...
Giữ cho sông Hương là giữ trái tim Huế.
Không thể kể hết những việc đã làm được cho một thành phố di sản văn hóa: định cư vạn đò; trùng tu, phục chế nhiều lăng tẩm triều Nguyễn, điện các trong Hoàng thành, trùng tu phục hồi hoạt động các nhà hát cũ như Duyệt Thị đường, Minh Khiêm đường; giải tỏa, xây kè hai bờ sông An Cựu; nạo vét, giải tỏa hai bờ sông Ngự Hà; giải tỏa Hộ Thành hào... Qua tám lần tổ chức thành công Festival, đã đưa Huế trở thành một Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.
Huế ngày càng được du khách tìm đến nhiều hơn.
Ghi tên trên bản đồ y khoa thế giới
Trong ký ức nhiều bác sĩ tham gia kháng chiến, chuẩn bị giải phóng Huế là thông tin bất ngờ đến với mọi người sau Tết 1975. Lúc đó cơ quan Ty Y tế Thừa Thiên (sau này là Sở Y tế Thừa Thiên Huế) đang đứng chân ở vùng rừng núi A Lưới bên cạnh bờ sông Asap trong xanh, hiền hòa.
Đoàn tiếp quản ngành y tế ngày đó gồm các bác sĩ, dược sĩ, cán bộ chính trị và bộ phận hậu cần, tất cả khoảng 15 người. Đoàn cùng với các ban ngành khác của tỉnh đã hành quân bằng ô tô về tập kết ở lăng Tự Đức trước ngày giải phóng khoảng một tuần.
Ngày đoàn xe ô tô khởi hành từ lăng Tự Đức về trung tâm thành Huế thật bồi hồi xúc động. Hai bên đường là những hàng người chào đón, nhà nhà đều treo cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng nửa đỏ nửa xanh, ngôi sao vàng ở giữa... Đoàn xe đi qua Nam Giao, chùa Từ Đàm, rồi xuôi dọc sông Hương qua trường Quốc Học, trường Đồng Khánh, Bệnh viện Huế rồi đến Ty Y tế cũ đều nằm trong trục đường Lê Lợi rợp bóng hàng cây hai bên đường.
Với tầm nhìn về sự phát triển Bệnh viện Trung ương Huế, được sự đồng ý của GS.BS Hồ Đắc Di, Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, GS.BS Tôn Thất Tùng, Giám đốc Bệnh viện Việt - Đức, Bệnh viện T.Ư Huế đã cử một số bác sĩ theo học chuyên khoa sâu tại Trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Việt - Đức như BS Bùi Đức Phú (phẫu thuật tim mạch), BS Lê Lộc (phẫu thuật tiêu hóa), BS Nguyễn Duy Thăng (mô phôi), BS Nguyễn Văn Bằng (giải phẫu bệnh học)... Ngoài GS.BS Hồ Đắc Di, GS.BS Tôn Thất Tùng, nhiều GS.BS khác quê hương ở Huế như GS.BS Tôn Đức Lang, GS.BS Bửu Triều, GS.BS Nguyễn Phúc Cương... hướng dẫn tận tình chu đáo cho các bác sĩ ở Bệnh viện T.Ư Huế theo học. Các “học trò” ngày ấy nay đều giữ các cương vị trọng trách của bệnh viện lớn có tầm cỡ trên cả nước và ngang tầm trong khu vực.
![]() |
Bệnh viện T.Ư Huế được xếp hạng đặc biệt, là địa chỉ y tế đầu tiên của Việt Nam có tên trên bản đồ ghép tim thế giới. |
Thời gian trôi nhanh, đã 40 năm kể từ sau giải phóng 3/1975, đến nay, Bệnh viện T.Ư Huế trưởng thành về nhiều mặt, trong đó đáng chú ý là các kỹ thuật chuyên sâu về tim mạch, nội soi can thiệp, ghép tạng, hợp tác quốc tế... phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Đặc biệt, Bệnh viện đã được xếp hạng đặc biệt, là địa chỉ y tế đầu tiên của Việt Nam có tên trên bản đồ ghép tim thế giới, trở thành trung tâm ghép tim hàng đầu của Việt Nam. Tại đây, năm 2011, Bệnh viện đã thực hiện thành công ca ghép tim từ người cho chết não.
Mới đây, tháng 6/2014, Bệnh viện tiếp tục thành công với ca phẫu thuật cấy Heartware cho bệnh nhân mắc bệnh cơ tim giãn giai đoạn cuối có tiên lượng nguy hiểm đến tính mạng. Ca phẫu thuật do GS.TS Bùi Đức Phú, Giám đốc Bệnh viện T.Ư Huế thực hiện với sự trợ giúp của chuyên gia đến từ Bệnh viện St Vincent (Úc). Thành công này mang lại hướng đi mới trong việc điều trị cho các bệnh nhân suy tim, suy tim - phổi giai đoạn cuối bằng công nghệ hiện đại.
Nếu như trước đây nhiều bệnh nhân mắc bệnh tim nặng thường phải chuyển đi nước ngoài điều trị, thì nay Bệnh viện T.Ư Huế cơ bản đã giải quyết được những trường hợp này. Đặc biệt, đã có 12 bệnh nhân nước ngoài được điều trị thành công tại Khoa Cấp cứu Tim mạch thuộc Trung tâm Tim mạch của Bệnh viện T.Ư Huế. Trong lĩnh vực ghép tạng, Bệnh viện T.Ư Huế cũng đã ghép thận với tỷ lệ thành công 100%. Bên cạnh đó, Bệnh viện còn thực hiện được rất nhiều kỹ thuật chẩn đoán và điều trị phức tạp khác, góp phần đem lại cuộc sống cho những bệnh nhân nguy kịch.
Hiện nay, Bệnh viện T.Ư Huế đã xây dựng được một cơ sở vật chất hiện đại cùng đội ngũ bác sĩ giỏi có thể đảm nhận tốt các kỹ thuật mới, ngang tầm với thế giới.
Những cây cầu qua phá Tam Giang
Ấn tượng thứ hai là hệ thống giao thông đã nối gần núi rừng và vùng biển ở Huế. Rộng gấp 7 lần Đà Nẵng, việc Thừa Thiên Huế nhựa hóa, bê tông hóa hệ thống đường liên thôn liên xã đã là một kỳ công. Cách đây nhiều năm, các bản làng miền núi Nam Đông, A Lưới, Tây Thừa Thiên, xe ô tô đã vào đến tận các ngõ xóm trên những con đường bê tông.
Trước đây, từ Huế đi A Lưới phải mất một ngày đường và chỉ có một con đường độc đạo: từ Huế ra Đông Hà rồi đi ngược lên, nay thì chỉ đi mất hơn một tiếng trên đường QL 49 được thảm nhựa láng o.
Ý tưởng xây cầu qua phá Tam Giang - Cầu Hai là một ý tưởng có tính đột phá, táo bạo chưa từng có trong lịch sử Huế khi từ thời Thuận Hóa hàng trăm năm trước đã có câu: “Thương anh em cũng muôn vô/ Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”.
Truyền thuyết dân gian kể rằng quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng đã từng làm phép trừ sóng dữ thủy quái. Kết quả là thủy quái không còn, thuyền bè qua lại trên phá Tam Giang bình an vô sự. Tuy nhiên, vùng bên kia phá vẫn mãi là “ốc đảo”, đò giang cách trở. Vậy mà bây giờ, nhiều cây cầu vững chãi, hiện đại đã bắc qua phá Tam Giang - Cầu Hai, đánh thức tiềm năng kinh tế của vùng đất rộng lớn.
Năm 1989, lịch sử phá Tam Giang sang trang khi cầu Thuận An, cây cầu đầu tiên bắc qua phá Tam Giang được khởi công xây dựng, nối quốc lộ 49B qua phá Tam Giang nơi vùng “cửa ngõ” phía đông của tỉnh với TP Huế. Bây giờ, bên kia cầu Thuận An đã trở thành đô thị sầm uất.
Bốn năm sau, tháng 8/2003, cầu Trường Hà (chính xác phải gọi là Trừng Hà, tên ngôi làng có cầu bắc qua) được khai thông. Đây là cây cầu thứ hai bắc qua phá Tam Giang, kết nối huyết mạch giao thông từ Khu công nghiệp Phú Bài, quốc lộ 1A với quốc lộ 49B bên kia phá. Nhiều người vẫn không quên hình ảnh hôm khánh thành chiếc cầu bắc qua đầm Thủy Tú trên phá Tam Giang: rất nhiều cụ ông khăn đóng áo dài chỉnh tề đi lại bịn rịn trên những nhịp cầu. Không vui làm sao được, không cảm động đến dâng trào sao được khi mà đã bao đời nay, người dân vùng đầm phá đi về phía biển hay trong hành trình ngược lại phải đi đường vòng dài gấp đôi gấp ba hay phải vượt phá trên bao chuyến đò may rủi.
Chưa đầy 1 năm sau (tháng 7/2004), người dân vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai lại có dịp vui mừng khi cầu Tư Hiền được khởi công. Cầu Tư Hiền cách cửa biển Tư Hiền 800m về phía đầm Cầu Hai, ngoài thông nối QL1A với QL49B nơi vùng “cửa ngõ” phía Nam của tỉnh, cầu Tư Hiền còn kết nối giao thông cho các xã “ốc đảo” nằm giữa đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và biển Đông thuộc huyện Phú Lộc với đất liền, tạo thành tuyến huyết mạch giao thông ven biển của tỉnh - QL49B từ chân đèo Phước Tượng (huyện Phú Lộc) đến thị trấn Thuận An (huyện Phú Vang).
![]() |
Cầu Ca Cút |
Tháng 5/2008, cầu Tam Giang (dân gian gọi cầu Ca Cút) được xây dựng. Cầu Tam Giang cùng với cầu Thảo Long, cầu Thuận An, cầu Trường Hà, cầu Tư Hiền tạo nên một hệ thống giao thông liên hoàn của tuyến quốc lộ 49B chạy dọc ven biển từ Bắc vào Nam của tỉnh; rút ngắn khoảng cách giữa các xã ven biển với thành phố Huế và với quốc lộ 1A. Đứng trên cầu Ca Cút nhìn xa về phía biển, chợt nhớ tiếng gọi đò năm xửa năm xưa.
Lại nhớ những năm 80 đi từ Huế qua bãi tắm Thuận An đã phải vất vả mấy lần đò, bây giờ thì qua phá Tam Giang - Cầu Hai xe chạy ào ào. Tam Giang không còn xa xôi ốc đảo huyền bí mà đã hội nhập kinh tế từ các hải sản đánh bắt xa bờ.
Phải nói vùng đất Thừa Thiên Huế hôm nay đã làm được cái việc ngàn đời không làm được là xây dựng một hệ thống cầu hiện đại qua phá Tam Giang - Cầu Hai, đó là cái đáng khâm phục nhất trong lịch sử vùng đất này.
Những cây cầu đó là chứng chỉ của một Thừa Thiên Huế sau 40 năm hòa bình, xây dựng và phát triển, là điểm nhấn hết sức nhân văn trong bức tranh toàn cảnh Thừa Thiên Huế thời đổi mới…
T.P
(SDB16/03-15)
TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...