TRƯỜNG PHƯỚC
Đất nước hòa bình, thống nhất, thực hiện công cuộc đổi mới phát triển đã 40 năm. Những thành tựu là có thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, muốn phát triển, công cuộc đổi mới cần được thúc đẩy một cách mạnh mẽ có hiệu quả hơn nữa.
Ảnh: internet
Vùng đất Thừa Thiên Huế cũng đã có những thành tựu sau 40 năm hòa bình. Vị thế trung tâm văn hóa được tiếp tục khẳng định khi Huế đã được mệnh danh là thành phố Festival, thành phố văn hóa Asean, thành phố môi trường xanh sạch đẹp… Và dĩ nhiên, vùng đất này còn phải nỗ lực nhiều hơn mới có thể có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi nhìn lại thành quả một chặng đường, có những điểm nhấn thành công mà ai cũng đồng tình: gìn giữ phát huy giá trị văn hóa - môi trường Huế, phát triển trung tâm y tế chuyên sâu và hệ thống giao thông nối liền rừng - biển.
Huế - thành phố văn hóa Asean, thành phố Festival
Sau 40 năm xây dựng và phát triển, Huế trở thành một thành phố sinh thái - di sản - lịch sử. Việc các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Thừa Thiên Huế kiên quyết duy trì mục tiêu phát triển bền vững, thân thiện với môi trường đã khiến Huế luôn được chăm chút sửa sang, luôn xanh - sạch - đẹp. Huế trở thành thành phố gần gũi với thiên nhiên, đây chính là mơ ước của nhiều đô thị lớn trên thế giới trong thời đại ô nhiễm môi trường như bây giờ. Trong quá khứ, người dân đã từng kiến nghị không cho Công ty xi-măng Lukvaxi xây khách sạn chòi lấn sông Hương, người dân đấu tranh không cho nhà đầu tư nước ngoài xây khách sạn trên Đồi Vọng Cảnh, người dân đề nghị Khách sạn Hoàng Đế không được xây cao quá 14 tầng vì lo ảnh hưởng đến sông Hương ...
Giữ cho sông Hương là giữ trái tim Huế.
Không thể kể hết những việc đã làm được cho một thành phố di sản văn hóa: định cư vạn đò; trùng tu, phục chế nhiều lăng tẩm triều Nguyễn, điện các trong Hoàng thành, trùng tu phục hồi hoạt động các nhà hát cũ như Duyệt Thị đường, Minh Khiêm đường; giải tỏa, xây kè hai bờ sông An Cựu; nạo vét, giải tỏa hai bờ sông Ngự Hà; giải tỏa Hộ Thành hào... Qua tám lần tổ chức thành công Festival, đã đưa Huế trở thành một Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.
Huế ngày càng được du khách tìm đến nhiều hơn.
Ghi tên trên bản đồ y khoa thế giới
Trong ký ức nhiều bác sĩ tham gia kháng chiến, chuẩn bị giải phóng Huế là thông tin bất ngờ đến với mọi người sau Tết 1975. Lúc đó cơ quan Ty Y tế Thừa Thiên (sau này là Sở Y tế Thừa Thiên Huế) đang đứng chân ở vùng rừng núi A Lưới bên cạnh bờ sông Asap trong xanh, hiền hòa.
Đoàn tiếp quản ngành y tế ngày đó gồm các bác sĩ, dược sĩ, cán bộ chính trị và bộ phận hậu cần, tất cả khoảng 15 người. Đoàn cùng với các ban ngành khác của tỉnh đã hành quân bằng ô tô về tập kết ở lăng Tự Đức trước ngày giải phóng khoảng một tuần.
Ngày đoàn xe ô tô khởi hành từ lăng Tự Đức về trung tâm thành Huế thật bồi hồi xúc động. Hai bên đường là những hàng người chào đón, nhà nhà đều treo cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng nửa đỏ nửa xanh, ngôi sao vàng ở giữa... Đoàn xe đi qua Nam Giao, chùa Từ Đàm, rồi xuôi dọc sông Hương qua trường Quốc Học, trường Đồng Khánh, Bệnh viện Huế rồi đến Ty Y tế cũ đều nằm trong trục đường Lê Lợi rợp bóng hàng cây hai bên đường.
Với tầm nhìn về sự phát triển Bệnh viện Trung ương Huế, được sự đồng ý của GS.BS Hồ Đắc Di, Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, GS.BS Tôn Thất Tùng, Giám đốc Bệnh viện Việt - Đức, Bệnh viện T.Ư Huế đã cử một số bác sĩ theo học chuyên khoa sâu tại Trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Việt - Đức như BS Bùi Đức Phú (phẫu thuật tim mạch), BS Lê Lộc (phẫu thuật tiêu hóa), BS Nguyễn Duy Thăng (mô phôi), BS Nguyễn Văn Bằng (giải phẫu bệnh học)... Ngoài GS.BS Hồ Đắc Di, GS.BS Tôn Thất Tùng, nhiều GS.BS khác quê hương ở Huế như GS.BS Tôn Đức Lang, GS.BS Bửu Triều, GS.BS Nguyễn Phúc Cương... hướng dẫn tận tình chu đáo cho các bác sĩ ở Bệnh viện T.Ư Huế theo học. Các “học trò” ngày ấy nay đều giữ các cương vị trọng trách của bệnh viện lớn có tầm cỡ trên cả nước và ngang tầm trong khu vực.
![]() |
Bệnh viện T.Ư Huế được xếp hạng đặc biệt, là địa chỉ y tế đầu tiên của Việt Nam có tên trên bản đồ ghép tim thế giới. |
Thời gian trôi nhanh, đã 40 năm kể từ sau giải phóng 3/1975, đến nay, Bệnh viện T.Ư Huế trưởng thành về nhiều mặt, trong đó đáng chú ý là các kỹ thuật chuyên sâu về tim mạch, nội soi can thiệp, ghép tạng, hợp tác quốc tế... phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Đặc biệt, Bệnh viện đã được xếp hạng đặc biệt, là địa chỉ y tế đầu tiên của Việt Nam có tên trên bản đồ ghép tim thế giới, trở thành trung tâm ghép tim hàng đầu của Việt Nam. Tại đây, năm 2011, Bệnh viện đã thực hiện thành công ca ghép tim từ người cho chết não.
Mới đây, tháng 6/2014, Bệnh viện tiếp tục thành công với ca phẫu thuật cấy Heartware cho bệnh nhân mắc bệnh cơ tim giãn giai đoạn cuối có tiên lượng nguy hiểm đến tính mạng. Ca phẫu thuật do GS.TS Bùi Đức Phú, Giám đốc Bệnh viện T.Ư Huế thực hiện với sự trợ giúp của chuyên gia đến từ Bệnh viện St Vincent (Úc). Thành công này mang lại hướng đi mới trong việc điều trị cho các bệnh nhân suy tim, suy tim - phổi giai đoạn cuối bằng công nghệ hiện đại.
Nếu như trước đây nhiều bệnh nhân mắc bệnh tim nặng thường phải chuyển đi nước ngoài điều trị, thì nay Bệnh viện T.Ư Huế cơ bản đã giải quyết được những trường hợp này. Đặc biệt, đã có 12 bệnh nhân nước ngoài được điều trị thành công tại Khoa Cấp cứu Tim mạch thuộc Trung tâm Tim mạch của Bệnh viện T.Ư Huế. Trong lĩnh vực ghép tạng, Bệnh viện T.Ư Huế cũng đã ghép thận với tỷ lệ thành công 100%. Bên cạnh đó, Bệnh viện còn thực hiện được rất nhiều kỹ thuật chẩn đoán và điều trị phức tạp khác, góp phần đem lại cuộc sống cho những bệnh nhân nguy kịch.
Hiện nay, Bệnh viện T.Ư Huế đã xây dựng được một cơ sở vật chất hiện đại cùng đội ngũ bác sĩ giỏi có thể đảm nhận tốt các kỹ thuật mới, ngang tầm với thế giới.
Những cây cầu qua phá Tam Giang
Ấn tượng thứ hai là hệ thống giao thông đã nối gần núi rừng và vùng biển ở Huế. Rộng gấp 7 lần Đà Nẵng, việc Thừa Thiên Huế nhựa hóa, bê tông hóa hệ thống đường liên thôn liên xã đã là một kỳ công. Cách đây nhiều năm, các bản làng miền núi Nam Đông, A Lưới, Tây Thừa Thiên, xe ô tô đã vào đến tận các ngõ xóm trên những con đường bê tông.
Trước đây, từ Huế đi A Lưới phải mất một ngày đường và chỉ có một con đường độc đạo: từ Huế ra Đông Hà rồi đi ngược lên, nay thì chỉ đi mất hơn một tiếng trên đường QL 49 được thảm nhựa láng o.
Ý tưởng xây cầu qua phá Tam Giang - Cầu Hai là một ý tưởng có tính đột phá, táo bạo chưa từng có trong lịch sử Huế khi từ thời Thuận Hóa hàng trăm năm trước đã có câu: “Thương anh em cũng muôn vô/ Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”.
Truyền thuyết dân gian kể rằng quan Nội tán Nguyễn Khoa Đăng đã từng làm phép trừ sóng dữ thủy quái. Kết quả là thủy quái không còn, thuyền bè qua lại trên phá Tam Giang bình an vô sự. Tuy nhiên, vùng bên kia phá vẫn mãi là “ốc đảo”, đò giang cách trở. Vậy mà bây giờ, nhiều cây cầu vững chãi, hiện đại đã bắc qua phá Tam Giang - Cầu Hai, đánh thức tiềm năng kinh tế của vùng đất rộng lớn.
Năm 1989, lịch sử phá Tam Giang sang trang khi cầu Thuận An, cây cầu đầu tiên bắc qua phá Tam Giang được khởi công xây dựng, nối quốc lộ 49B qua phá Tam Giang nơi vùng “cửa ngõ” phía đông của tỉnh với TP Huế. Bây giờ, bên kia cầu Thuận An đã trở thành đô thị sầm uất.
Bốn năm sau, tháng 8/2003, cầu Trường Hà (chính xác phải gọi là Trừng Hà, tên ngôi làng có cầu bắc qua) được khai thông. Đây là cây cầu thứ hai bắc qua phá Tam Giang, kết nối huyết mạch giao thông từ Khu công nghiệp Phú Bài, quốc lộ 1A với quốc lộ 49B bên kia phá. Nhiều người vẫn không quên hình ảnh hôm khánh thành chiếc cầu bắc qua đầm Thủy Tú trên phá Tam Giang: rất nhiều cụ ông khăn đóng áo dài chỉnh tề đi lại bịn rịn trên những nhịp cầu. Không vui làm sao được, không cảm động đến dâng trào sao được khi mà đã bao đời nay, người dân vùng đầm phá đi về phía biển hay trong hành trình ngược lại phải đi đường vòng dài gấp đôi gấp ba hay phải vượt phá trên bao chuyến đò may rủi.
Chưa đầy 1 năm sau (tháng 7/2004), người dân vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai lại có dịp vui mừng khi cầu Tư Hiền được khởi công. Cầu Tư Hiền cách cửa biển Tư Hiền 800m về phía đầm Cầu Hai, ngoài thông nối QL1A với QL49B nơi vùng “cửa ngõ” phía Nam của tỉnh, cầu Tư Hiền còn kết nối giao thông cho các xã “ốc đảo” nằm giữa đầm phá Tam Giang - Cầu Hai và biển Đông thuộc huyện Phú Lộc với đất liền, tạo thành tuyến huyết mạch giao thông ven biển của tỉnh - QL49B từ chân đèo Phước Tượng (huyện Phú Lộc) đến thị trấn Thuận An (huyện Phú Vang).
![]() |
Cầu Ca Cút |
Tháng 5/2008, cầu Tam Giang (dân gian gọi cầu Ca Cút) được xây dựng. Cầu Tam Giang cùng với cầu Thảo Long, cầu Thuận An, cầu Trường Hà, cầu Tư Hiền tạo nên một hệ thống giao thông liên hoàn của tuyến quốc lộ 49B chạy dọc ven biển từ Bắc vào Nam của tỉnh; rút ngắn khoảng cách giữa các xã ven biển với thành phố Huế và với quốc lộ 1A. Đứng trên cầu Ca Cút nhìn xa về phía biển, chợt nhớ tiếng gọi đò năm xửa năm xưa.
Lại nhớ những năm 80 đi từ Huế qua bãi tắm Thuận An đã phải vất vả mấy lần đò, bây giờ thì qua phá Tam Giang - Cầu Hai xe chạy ào ào. Tam Giang không còn xa xôi ốc đảo huyền bí mà đã hội nhập kinh tế từ các hải sản đánh bắt xa bờ.
Phải nói vùng đất Thừa Thiên Huế hôm nay đã làm được cái việc ngàn đời không làm được là xây dựng một hệ thống cầu hiện đại qua phá Tam Giang - Cầu Hai, đó là cái đáng khâm phục nhất trong lịch sử vùng đất này.
Những cây cầu đó là chứng chỉ của một Thừa Thiên Huế sau 40 năm hòa bình, xây dựng và phát triển, là điểm nhấn hết sức nhân văn trong bức tranh toàn cảnh Thừa Thiên Huế thời đổi mới…
T.P
(SDB16/03-15)
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)