Hoàng Văn Hoè - Nhà thơ xuất sắc trong triều Nguyễn

09:50 24/03/2009
DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

Thời ấy, sau khi đã chiếm sáu tỉnh kỳ, thực dân Pháp thực hiện mưu đồ vết dầu loang từng bước mở rộng đất đai xâm chiếm. Trung kỳ và Bắc kỳ nước ta tuy còn trong tay nhà Nguyễn nhưng không được độc lập hoàn toàn.
Năm 1873, pháp cho quân đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất. Nguyễn Tri Phương-người từng làm Thượng thư bộ Binh, kỳ kinh lược xứ, Bắc kỳ tổng thống quân vụ được trao trọng trách giữ thành Hà Nội... Lúc đó, Hoàng Văn Hoè vừa đậu cử nhân được ba năm. Ông đã tự nguyện ứng nghĩa, mộ quân phối hợp bảo vệ thành, đánh giặc. Trong một bài viết bằng chữ Hán, ông có ghi rõ sự kiện này: Khi tôi tòng quân, thường đóng binh ở Sóc Sơn (Dư tòng quân thời, thường trú binh Sóc Sơn). Chiếm được thành nhưng quân giặc đã phải rút.

Năm 1882, đại tá Pháp Hăng ri Rive (Henri Rivière) đem quân ra đánh thành Hà Nội lần thứ hai và xâm chiếm sang các vùng lân cận. Lúc này, Hoàng Văn Hoè mới giành học vị Tiến sĩ được hai năm, đang làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình. Trước cảnh nước mất nhà tan, ông đã khảng khái nạp ấn tín trả triều đình. Ông đã liên kết ngay với các thủ lĩnh Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật... xây dựng được một phòng tuyến khá kiên cố từ Đình Bảng chạy dài xuống giáp đê sông Đuống để chống giặc. Hoàng Văn Hoè thường xuyên có mặt trên tuyến phòng thủ trực tiếp chỉ huy, chiến đấu và động viên binh sĩ.

Trong những năm 1884-1885, triều đình Huế chia làm hai phái rõ rệt: chủ chiến và chủ hoà. Biết Hoàng Văn Hoè là một sĩ phu yêu nước xuất sắc của xứ Bắc, Nguyên soái Tổng tiết chế quân vụ Đại thần Tôn Thất Thuyết thừa lệnh vua Hàm Nghi đã triệu ông về kinh, giao chức Sử quán tu biên, thực chất là để tăng cường tướng lĩnh cho phái chủ chiến. Hoàng Văn Hoè đã trực tiếp tham gia cuộc chính biến đêm 22 rạng ngày 23 tháng Năm năm Ất Dậu. Đêm ấy dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết, quân Nam triều với 450 khẩu thần công đại bác và hàng vạn tay súng trường, cung kiếm đã bất ngờ tiến công vào quân Pháp ở đồn Mang Cá và bên toà Khâm sứ làm cho quan giặc tổn thất nặng nề và vô cùng khiếp sợ. Cuộc chiến đó bị thất bại. Vua Hàm Nghi và đoàn ngự giá phải rút khỏi kinh thành, lánh về Tân Sở- Quảng Trị, mở ra một thời kỳ Cần Vương cả nước sôi sục đánh giặc cứu nước.

Sau cuộc chiến đó không ai biết gì thêm về Hoàng Văn Hoè. Người ta cho rằng, ông đã hy sinh ngay trong đêm kinh thành khói lửa!
Hoàng Văn Hoè- biệt hiệu Hạc Nhân là con trai thứ mười một của Ngự sử Hoàng Công Định. Đến thời kinh thành tạm yên, ông Hoàng Huy Đạm là anh ruột thứ tám của ông Hoè do vào kinh tìm mộ em mà thu thập được tập thơ Hạc Nhân tùng ngôn. Mấy người trong gia tộc lại sưu tầm thêm thơ văn của ông Hoè viêt ở quê trước đây, đóng thành sách trong đó có 319 bài thơ chữ Hán. Ông Hoàng Thụy Liên- em ruột ông Hoè, con thứ mười hai của Ngự sử Hoàng Công Định đã viết Tựa. Trong lời đầu sách viết cách nay chừng một trăm năm, có đoạn:
Năm Ất Dậu niên hiệu Hàm Nghi, kinh thành có sự biến, anh cam lòng liều chết cứu nạn nước, hết lòng trung vì quốc sự, thực không hổ thẹn với nếp nhà hiếu nghĩa...

Một số bậc túc nho đã đọc Hạc Nhân tùng ngôn đều khen ngợi thơ hay nhưng cực kỳ khó dịch, vì chữ viết lại như rồng bay phượng múa, đời nay không mấy người đọc thông hiểu đầy đủ. Trong mấy chục năm qua, Hạc Nhân tùng ngôn mới được Chu Thiên dịch 4 bài. Do vậy, Hoàng Văn Hoè mới được giới thiệu đôi ba dòng trong các tập sách: Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục, Hợp tuyển thơ văn Việt (1858-1920) tập IV quyển Một, của nhóm Lê Thước...
Mãi gần đây, năm 2003 với sự cố gắng của nhóm biên dịch: Duy Phi-Lê Xuân Hãng-Tống Đức Nhuận phối hợp với nhà văn Thuý Toàn (hậu duệ của Hoàng Văn Hòe) cùng Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới xuất bản được tập sách Thơ chữ Hán Hoàng Văn Hoè (85 bài).
Tác giả Hạc Nhân tùng ngôn rất có ý thức chăm chút cho thơ, ông quan niệm:

Nhất chi bút hội thiên sơn ý
Bán cú thi hàm vạn cổ tình.
                        (Đạo trung thứ...)
Mỗi nhành bút hội được ý nghìn núi non
Nửa câu thơ chứa cả tình muôn thuở


Trong tập, có nhiều bài ca ngợi quê hương đất nước: Đề ở miếu Cổ Loa, Lên núi Phật Tích, Sông Hương đêm trên thuyền... Bài thơ Đến vườn Dược Sơn (Hữu Dược sơn viên) ca ngợi Trần Hưng Đạo, bộc lộ nét hào khí:

Lâu đài lịch lạc viên lâm cố
Nhạn táo hoành thu phong cảnh mộ
Kim nhân hốt ức Bạch Đằng công
Phủ ngưỡng bồi hồi ỷ giang thụ
Đại vương khởi duy huân liệt cao
Trung hiếu nhất sinh chân quốc trụ
Nộ lạt bất dung ngỗ nghịch nhi
Thử tâm tự túc dĩ thiên cổ.


Lâu đài trong vườn rừng cũ trải bao biến đổi
Tiếng nhạn kêu ngang gió chiều thu
Người nay bỗng nhớ chiến công Bạch Đằng
Bồi hồi tựa cây bên sông mà ngưỡng vọng
Chỉ có Đại vương là người công cao hơn cả
Một đời trung hiếu trụ cột của đất nước
Người từng giận, không dung sự ngỗ nghịch của con trẻ
Tấm lòng ấy đủ để lưu ngàn đời sau.


Để hiểu bài thơ này cần có mấy chú thích:
-Dược sơn viên, vườn trồng cây thuốc trên núi bên đền Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) nơi ở của Trần Hưng Đạo cho đến cuối đời.
-Trong trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (4/1228) các tướng giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp... đều bị bắt sống. Quân ta thu đựơc trên 400 chiếc thuyền giặc...
-Đại vương tức Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300). Năm 1984 tại Luân Đôn trong một phiên họp với các nhà bác học và quân sự thế giới do Hoàng gia Anh chủ trì đã công bố danh sách 10 Đại nguyên soái quân sự của thế giới trong đó có Trần Hưng Đạo. Trần Liễu (sinh ra Trần Quốc Tuấn) thù hận với Trần Cảnh (sinh ra Trần Quang Khải), vì theo sự thu xếp của Trần Thủ Độ:Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu-anh ruột. Trần Liễu từng đem quân làm loạn... Sau này, Trần Quốc Tảng (con của Trần Quốc Tuấn) có ý kích cha để cướp ngôi của chi thứ. Trần Quốc Tuấn nổi giận rút gươm toan chém Tảng, nhờ nhiều người van xin cho ông mới thôi, nhưng nói: “Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử phản thần này nữa”. Trần Quốc Tuấn chủ động hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần.

Trong Hạc Nhân tùng ngôn có nhiều vần thơ nói lên nỗi đau trước cảnh quê hương bị lũ giặc đốt phá tàn sát, chúng truy lùng bắn giết những người yêu nước như diễn trò săn hổ báo:

Tứ hải thập niên bất giải binh
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ
Quần đạo tương tuỳ kịch hổ lang
Biên đình lưu huyết thành hà thuỷ
                                    (Cảm tập đồ)
Mười năm bốn bể còn binh lửa
Vạn xóm ngàn thôn lút cỏ lau
Bầy cướp đua nhau săn hổ báo
Bên thành như suối máu tuôn trào

Trong bài Tiễn Hộ bộ Biện lý Lê Hương Giang về triều, ông viết cho bạn mà như viết cho chính mình, lý tưởng của ông là sống sao cho trọn hai chữ trung hiếu:

Hồ thỉ sơ tâm viễn đại kỳ
Tối tô trung hiếu lưỡng kiêm chi
Chí lớn từ xưa với kiếm cung
Đôi niềm trung hiếu vẫn song song

Bài Tĩnh Gia tảo phát (Ở Tĩnh Gia đi sớm) có câu:
Tối hỉ sơ dương hậu
Thiên phân nhất vọng bình.
Mừng lắm sơ dương chiếu
Hung khí ắt tan nhanh.

Không dám dịch ngay sơ dương là mặt trời mới mọc. Theo Kinh dịch thì sơ dương  là một hào dương đã xuất hiện, ở thế đi lên đẩy dần các hào âm trên nó. Ý thơ của Hoàng Văn Hoè rất sâu rộng.
Trong Hạc Nhân tùng ngôn có nhiều bài viết về Huế: An Định chu thứ (Trên thuyền về An Định), Hương kiều (Cầu sông Hương), Xuân giao (Ngày xuân tế giao)... Qua bài Lưỡng nang cẩm cú (Hai túi những câu thơ hay), ta nhớ lại tục chơi Thả thơ của người Huế xưa. Bài Tân Tỵ nguyên nhật triều hồi kỷ sự  (ngày mồng một Tết Tân Tỵ- 1881 về triều ghi lại) là những nét chân phác về một buổi tế mồng một Tết của vua trên đất sông Hương núi Ngự. Hương giang dạ phiếm chu (Sông Hương đêm trên thuyền) cho ta hiểu được đôi chút về những khát vọng lớn lao của tác giả. Đêm trên dòng Hương sao trời lấp lánh, ông buông cần câu cá, khi nhấc cần lên ngỡ câu được cả sao Ngưu, sao Đẩu:

Tinh thần ba diện sam si kiến
Ngộ bả trường can điếu Đẩu, Ngưu.
Trăng sao trên mặt sóng bồng bềnh lên xuống
Ngỡ nhấc cần, câu được cả sao Đẩu, sao Ngưu

Thơ chữ Hán xưa, có nhiều tác giả còn phải chạy theo vần theo ý. Vượt qua được sự gò bó, thơ Hoàng Văn Hoè diễn đạt được cả những cảm xúc phức hợp. Bài thơ tứ tuyệt Giang quán khiển ứng -VII có nhiều nét mới lạ:

Sổ khúc lan tường xuân thuỷ thâm
Thổ âm Thái bán tạp Nông âm
Khấu huyền ngã dục ca tường hoạ
Liêu hoạ dương hoa cách ngạn âm.

Mái chèo khoẻ, chèo thuyền lượn theo nước sông xuân sâu thẳm.
Nghe (thuyền bên) những tiếng địa phương
                                    nửa là tiếng Thái nửa tiếng Nùng
Gõ thuyền ta ca, mong có tiếng ai đó vọng lại
Chỉ có hoa dương liễu hoạ lại ở phía nam sông
.

Tác giả ca, muốn có ai đối đáp như hát quan họ, như hát ví nhưng chỉ có đám dương liễu phía nam sông: rung lên, lả tả hoa rụng.
Có nhiều câu thơ diễn đạt cả năng lực quan sát tinh tế, sinh động:
-Tùng trúc tứ vi bình tháp ảnh
Lâu đài nhất thốc đảo ba tâm
                                    (Đăng Phật Tích sơn)
Thông trúc bốn bề, hình tháp trên mặt đất ngả dài
Lâu đài một cõi, bóng in ngược dưới đáy nước.

-Sơn như khuynh thạch tương điền hải
Triều dục truy nhân cấp thượng sa
                                                (Lý Hoà hải ngạn)
Núi như nghiêng đá cùng nhau lấp biển
Sóng triều muốn duổi theo
                        người chạy gấp trên bãi cát.

Hạc Nhân tùng ngôn
lại có những câu thơ rất hàm súc:
Lục ỷ hữu nha, huyền tự thán
Trung thư vô thiệt quản năng ngôn
                                    (Thứ vận phục đồng niên...)
Vải the lụa biếc dù tốt đẹp vẫn phải nhờ đến
            người rao hàng, riêng dây đàn tự nói được
Cuốn sách không có lưỡi,
                        vậy mà có khả năng tâm sự.

Có những câu thơ mới đọc nghe lạnh vắng, nhưng ngẫm cho cùng, đó là nỗi niềm trăn trở vì nhân thế, là một nét chân dung của tác giả:
Vạn lý cô vân tuỳ độc điểu
Bách niên hoàng quyển thoại thanh đăng
                                    (Thư quán mạn đề)
Vạn dặm một cánh chim bay hoài
                                trong đám mây lẻ
Trăm năm quyển sách vàng
                        trò chuyện với ngọn đèn xanh
.
Thơ thời ấy, sau Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, cùng với Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Thông còn có Hoàng Văn Hoè...
Là một tấm gương lớn về tinh thần dám xả thân vì nước, với Hạc Nhân tùng ngôn, Hoàng Văn Hoè còn là một trong số các nhà thơ xuất sắc của thế kỷ XIX.
D.P
(198/08-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.

  • VÕ QUÊLTS: Hoạ sĩ Dương Đình Sang, sinh năm 1950 tại Huế, nguyên giảng viên Đại Học Nghệ thuật Huế, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, hội viên Hội Liên Hiệp VHNT TT.Huế, mất ngày 18 tháng 10 năm 2005.Dù trái tim hoạ sĩ đã ngừng đập nhưng tình yêu và khát vọng Cái Đẹp vẫn còn sáng mãi trong sự nghiệp sáng tạo của ông.

  • LTS: Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương, sinh năm 1949 tại Huế, hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, mất ngày 21 tháng 10 năm 2005. Bài viết sau đây của Hạnh Lê sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương.

  • BÙI MINH ĐỨC...Vua Minh Mạng (1791-1841) lúc sinh thời đã có đến 43 bà phi tần nhưng người vợ đầu tiên của vua là bà Hồ Thị Hoa (1791-1807). Bà nầy là một người hiếu đức hiền thục và cũng là con của một công thần nên Bà đã được Vua Gia Long và Thuận Thiên Hoàng Hậu tuyển chọn đưa vào cung Tiềm để hầu hạ cho Hoàng tử con mình...

  • TRẦN HOÀNGThật là thú vị khi được đọc bài “Như thế nào thì được gọi là người Huế?” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê (Sông Hương số 187 tháng 9/2004) và bài “Người Huế, anh là ai?” của nhà giáo – dịch giả Bửu Ý (Sông Hương số 188 tháng 10/2004). Hai anh Nguyễn Khắc Phê, Bửu Ý, người quê xứ Nghệ, người gốc xứ Huế, trong bài viết của mình, dù cách viết, cách kiến giải có khác nhau, nhưng đều tập trung bàn luận, “xác định tính cách Huế, đặc tính người Huế”.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTố Hữu không những là một nhà thơ mà còn là một lãnh tụ chính trị được cán bộ và chiến sĩ rất trọng vọng. Nhiều lúc tôi có cảm giác trong tình cảm cán bộ: sau Bác Hồ là đến “Anh Tố Hữu”. Nghe thơ không những người ta tìm cái hay của thơ mà còn tìm ý kiến chỉ đạo cách mạng của ông Tố Hữu trong thơ nữa.

  • NGUYỄN TỐNGNguyễn Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu, cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó ngớ ra bao điều thú vị...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐàn ngựa cuồng phong lồng về Hà Nội một đợt mưa rét lạnh. Gió thổi mạnh vào khuya khiến lòng người chợt trắc ẩn, thao thức. Có cảm giác như phía Phủ Doãn có một người đang đi trong "Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây, gió reo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên". Ngỡ như ai đó huýt gió giai điệu "Đêm đông" trên đường đêm nơi ngày nào Nguyễn Văn Thương bắt đầu cảm hứng cho tình ca nổi tiếng ấy. Một thoáng mong nhớ về người nhạc sĩ tài năng này.

  • NGÔ KHAPháo đài Láng đi vào lịch sử kháng chiến của thủ đô Hà Nội và của dân tộc ta như một sự tích anh hùng. Khai hỏa loạt đạn đầu tiên bắn vào thành Hà Nội, mở màn cuộc kháng chiến toàn quốc chống xâm lược.

  • LÂM QUANG MINHSau bao nhiêu sự kiện và bộn bề công việc cuốn hút anh em Thanh niên tiền tuyến chúng tôi trong những ngày lịch sử sôi sục khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên - Huế, có một câu chuyện mà suốt 60 năm qua tôi chưa có dịp nào chia sẻ và kể lại cho anh em bè bạn nghe. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ và câu chuyện trao đổi ngắn ngủi giữa hai công dân - một bên là tôi, một bên là công dân Vĩnh Thuỵ - ngay sau ngày lễ thoái vị ngôi vua hôm trước.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 140 năm sinh cụ Phan Bội Châu 26/12/1867-26/12/2007)                            1. Sau phiên toà đại hình mở tại Hà Nội ngày 23/11/1925 kết án khổ sai chung thân cụ Phan Bội Châu, trước sức ép của dư luận trong nước và quốc tế, toàn quyền Pháp Varenne buộc phải ra lệnh “ân xá” và đưa Cụ về “an trí” tại Huế.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC * Như cá lội tung tăng trong nước, không hề biết mình bơi bằng cách nào, đôi lúc người Huế cũng sống hồn nhiên, không cảm nhận một cách rạch ròi về tính cách Huế, về yếu tính của một vùng đất mà mình đã sinh ra, lớn lên và một đời gắn bó máu thịt.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGLTS: Tháng Mười, tháng kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20.10.1930 – 20.10.2002), Sông Hương giới thiệu với bạn đọc một khuôn mặt phụ nữ Huế nổi danh từ đầu thế kỷ XX, người từng được cụ Phan Bội Châu cho lập miếu thờ và gọi là Ấu Triệu.

  • BỬU NAMBửu Chỉ là một cái tên không xa lạ với những ai ở miền Nam trước 1975. Anh là người hầu như duy nhất vẽ tranh về đề tài chiến tranh và hoà bình.Tên tuổi và tranh bằng bút sắt, mực đen của anh đã sóng đôi cùng với những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình của cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn - một người con yêu của xứ Huế đã làm rạng rỡ vùng đất đã sinh ra mình.

  • TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG(Trích tham luận trong Hội thảo kỷ niệm 120 năm ngày sinh Ưng Bình Thúc Giạ Thị tổ chức tại Huế)

  • TRỊNH CÔNG SƠNTrong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hòa bình thì ở phía hội họa, họa sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hòa bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt với mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Để ghi nhận những công lao to lớn của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng nền văn học nghệ thuật Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều giải thưởng cao quý tặng cho những công trình văn học - nghệ thuật xuất sắc của nhiều thế hệ cầm bút: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

  • THANH THẢOThơ Nguyễn Khoa Điềm say mê trong điềm tĩnh, khi nói những điều cao lớn, thơ ấy vẫn biết cúi nhìn những vật thấp nhỏ, những điều bình thường.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân cách Việt Nam ưu tú và vĩ đại của thế kỷ XX. Bài này thử nêu lên một vài khía cạnh của nhân cách đó.

  • LTS: Nhân lễ một trăm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Toà soạn nhận được bài viết của Cư sĩ Lê Quang Thái, giáo viên trường Trung cấp Phật học Thừa Thiên Huế - cung cấp thêm nhiều tư liệu quí về Trịnh Công Sơn và gia đình, theo “Phổ hệ” Qui y Tam Bảo tại chùa Phổ Quang - Huế, nhằm giúp độc giả hiểu thêm về quãng đời niên thiếu của nhạc sĩ tài hoa - người con thân yêu của xứ Huế đã viên thành...Sông Hương trân trọng giới thiệu và xem đây như một nén hương lòng gửi tới hương hồn Nhạc sĩ.