Hoàng Văn Hoè - Nhà thơ xuất sắc trong triều Nguyễn

09:50 24/03/2009
DUY PHITriều Nguyễn có nhiều nhà thơ lớn. Có một tác giả thơ xuất sắc thời ấy, song trên một trăm năm qua còn ít người biết đến, đó là Hoàng Văn Hoè (1848-?).Ông hiệu Cổ Lâm, quê gốc làng Phù Lưu, Tiên Sơn, Bắc Ninh, vốn thông minh từ nhỏ, bảy tuổi đã đọc Hán thư, có tài thơ văn, ông đỗ tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác - chuyên về văn chương. Ông làm quan đến Thị độc, sau ra làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình.Cuộc đời của Hoàng Văn Hoè là một bài ca đầy bi tráng.

Thời ấy, sau khi đã chiếm sáu tỉnh kỳ, thực dân Pháp thực hiện mưu đồ vết dầu loang từng bước mở rộng đất đai xâm chiếm. Trung kỳ và Bắc kỳ nước ta tuy còn trong tay nhà Nguyễn nhưng không được độc lập hoàn toàn.
Năm 1873, pháp cho quân đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất. Nguyễn Tri Phương-người từng làm Thượng thư bộ Binh, kỳ kinh lược xứ, Bắc kỳ tổng thống quân vụ được trao trọng trách giữ thành Hà Nội... Lúc đó, Hoàng Văn Hoè vừa đậu cử nhân được ba năm. Ông đã tự nguyện ứng nghĩa, mộ quân phối hợp bảo vệ thành, đánh giặc. Trong một bài viết bằng chữ Hán, ông có ghi rõ sự kiện này: Khi tôi tòng quân, thường đóng binh ở Sóc Sơn (Dư tòng quân thời, thường trú binh Sóc Sơn). Chiếm được thành nhưng quân giặc đã phải rút.

Năm 1882, đại tá Pháp Hăng ri Rive (Henri Rivière) đem quân ra đánh thành Hà Nội lần thứ hai và xâm chiếm sang các vùng lân cận. Lúc này, Hoàng Văn Hoè mới giành học vị Tiến sĩ được hai năm, đang làm tri phủ Kiến Xương, Thái Bình. Trước cảnh nước mất nhà tan, ông đã khảng khái nạp ấn tín trả triều đình. Ông đã liên kết ngay với các thủ lĩnh Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật... xây dựng được một phòng tuyến khá kiên cố từ Đình Bảng chạy dài xuống giáp đê sông Đuống để chống giặc. Hoàng Văn Hoè thường xuyên có mặt trên tuyến phòng thủ trực tiếp chỉ huy, chiến đấu và động viên binh sĩ.

Trong những năm 1884-1885, triều đình Huế chia làm hai phái rõ rệt: chủ chiến và chủ hoà. Biết Hoàng Văn Hoè là một sĩ phu yêu nước xuất sắc của xứ Bắc, Nguyên soái Tổng tiết chế quân vụ Đại thần Tôn Thất Thuyết thừa lệnh vua Hàm Nghi đã triệu ông về kinh, giao chức Sử quán tu biên, thực chất là để tăng cường tướng lĩnh cho phái chủ chiến. Hoàng Văn Hoè đã trực tiếp tham gia cuộc chính biến đêm 22 rạng ngày 23 tháng Năm năm Ất Dậu. Đêm ấy dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết, quân Nam triều với 450 khẩu thần công đại bác và hàng vạn tay súng trường, cung kiếm đã bất ngờ tiến công vào quân Pháp ở đồn Mang Cá và bên toà Khâm sứ làm cho quan giặc tổn thất nặng nề và vô cùng khiếp sợ. Cuộc chiến đó bị thất bại. Vua Hàm Nghi và đoàn ngự giá phải rút khỏi kinh thành, lánh về Tân Sở- Quảng Trị, mở ra một thời kỳ Cần Vương cả nước sôi sục đánh giặc cứu nước.

Sau cuộc chiến đó không ai biết gì thêm về Hoàng Văn Hoè. Người ta cho rằng, ông đã hy sinh ngay trong đêm kinh thành khói lửa!
Hoàng Văn Hoè- biệt hiệu Hạc Nhân là con trai thứ mười một của Ngự sử Hoàng Công Định. Đến thời kinh thành tạm yên, ông Hoàng Huy Đạm là anh ruột thứ tám của ông Hoè do vào kinh tìm mộ em mà thu thập được tập thơ Hạc Nhân tùng ngôn. Mấy người trong gia tộc lại sưu tầm thêm thơ văn của ông Hoè viêt ở quê trước đây, đóng thành sách trong đó có 319 bài thơ chữ Hán. Ông Hoàng Thụy Liên- em ruột ông Hoè, con thứ mười hai của Ngự sử Hoàng Công Định đã viết Tựa. Trong lời đầu sách viết cách nay chừng một trăm năm, có đoạn:
Năm Ất Dậu niên hiệu Hàm Nghi, kinh thành có sự biến, anh cam lòng liều chết cứu nạn nước, hết lòng trung vì quốc sự, thực không hổ thẹn với nếp nhà hiếu nghĩa...

Một số bậc túc nho đã đọc Hạc Nhân tùng ngôn đều khen ngợi thơ hay nhưng cực kỳ khó dịch, vì chữ viết lại như rồng bay phượng múa, đời nay không mấy người đọc thông hiểu đầy đủ. Trong mấy chục năm qua, Hạc Nhân tùng ngôn mới được Chu Thiên dịch 4 bài. Do vậy, Hoàng Văn Hoè mới được giới thiệu đôi ba dòng trong các tập sách: Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục, Hợp tuyển thơ văn Việt (1858-1920) tập IV quyển Một, của nhóm Lê Thước...
Mãi gần đây, năm 2003 với sự cố gắng của nhóm biên dịch: Duy Phi-Lê Xuân Hãng-Tống Đức Nhuận phối hợp với nhà văn Thuý Toàn (hậu duệ của Hoàng Văn Hòe) cùng Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới xuất bản được tập sách Thơ chữ Hán Hoàng Văn Hoè (85 bài).
Tác giả Hạc Nhân tùng ngôn rất có ý thức chăm chút cho thơ, ông quan niệm:

Nhất chi bút hội thiên sơn ý
Bán cú thi hàm vạn cổ tình.
                        (Đạo trung thứ...)
Mỗi nhành bút hội được ý nghìn núi non
Nửa câu thơ chứa cả tình muôn thuở


Trong tập, có nhiều bài ca ngợi quê hương đất nước: Đề ở miếu Cổ Loa, Lên núi Phật Tích, Sông Hương đêm trên thuyền... Bài thơ Đến vườn Dược Sơn (Hữu Dược sơn viên) ca ngợi Trần Hưng Đạo, bộc lộ nét hào khí:

Lâu đài lịch lạc viên lâm cố
Nhạn táo hoành thu phong cảnh mộ
Kim nhân hốt ức Bạch Đằng công
Phủ ngưỡng bồi hồi ỷ giang thụ
Đại vương khởi duy huân liệt cao
Trung hiếu nhất sinh chân quốc trụ
Nộ lạt bất dung ngỗ nghịch nhi
Thử tâm tự túc dĩ thiên cổ.


Lâu đài trong vườn rừng cũ trải bao biến đổi
Tiếng nhạn kêu ngang gió chiều thu
Người nay bỗng nhớ chiến công Bạch Đằng
Bồi hồi tựa cây bên sông mà ngưỡng vọng
Chỉ có Đại vương là người công cao hơn cả
Một đời trung hiếu trụ cột của đất nước
Người từng giận, không dung sự ngỗ nghịch của con trẻ
Tấm lòng ấy đủ để lưu ngàn đời sau.


Để hiểu bài thơ này cần có mấy chú thích:
-Dược sơn viên, vườn trồng cây thuốc trên núi bên đền Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) nơi ở của Trần Hưng Đạo cho đến cuối đời.
-Trong trận đại thắng trên sông Bạch Đằng (4/1228) các tướng giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp... đều bị bắt sống. Quân ta thu đựơc trên 400 chiếc thuyền giặc...
-Đại vương tức Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300). Năm 1984 tại Luân Đôn trong một phiên họp với các nhà bác học và quân sự thế giới do Hoàng gia Anh chủ trì đã công bố danh sách 10 Đại nguyên soái quân sự của thế giới trong đó có Trần Hưng Đạo. Trần Liễu (sinh ra Trần Quốc Tuấn) thù hận với Trần Cảnh (sinh ra Trần Quang Khải), vì theo sự thu xếp của Trần Thủ Độ:Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu-anh ruột. Trần Liễu từng đem quân làm loạn... Sau này, Trần Quốc Tảng (con của Trần Quốc Tuấn) có ý kích cha để cướp ngôi của chi thứ. Trần Quốc Tuấn nổi giận rút gươm toan chém Tảng, nhờ nhiều người van xin cho ông mới thôi, nhưng nói: “Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử phản thần này nữa”. Trần Quốc Tuấn chủ động hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo sự thống nhất ý chí của toàn bộ vương triều Trần.

Trong Hạc Nhân tùng ngôn có nhiều vần thơ nói lên nỗi đau trước cảnh quê hương bị lũ giặc đốt phá tàn sát, chúng truy lùng bắn giết những người yêu nước như diễn trò săn hổ báo:

Tứ hải thập niên bất giải binh
Thiên thôn vạn lạc sinh kinh kỷ
Quần đạo tương tuỳ kịch hổ lang
Biên đình lưu huyết thành hà thuỷ
                                    (Cảm tập đồ)
Mười năm bốn bể còn binh lửa
Vạn xóm ngàn thôn lút cỏ lau
Bầy cướp đua nhau săn hổ báo
Bên thành như suối máu tuôn trào

Trong bài Tiễn Hộ bộ Biện lý Lê Hương Giang về triều, ông viết cho bạn mà như viết cho chính mình, lý tưởng của ông là sống sao cho trọn hai chữ trung hiếu:

Hồ thỉ sơ tâm viễn đại kỳ
Tối tô trung hiếu lưỡng kiêm chi
Chí lớn từ xưa với kiếm cung
Đôi niềm trung hiếu vẫn song song

Bài Tĩnh Gia tảo phát (Ở Tĩnh Gia đi sớm) có câu:
Tối hỉ sơ dương hậu
Thiên phân nhất vọng bình.
Mừng lắm sơ dương chiếu
Hung khí ắt tan nhanh.

Không dám dịch ngay sơ dương là mặt trời mới mọc. Theo Kinh dịch thì sơ dương  là một hào dương đã xuất hiện, ở thế đi lên đẩy dần các hào âm trên nó. Ý thơ của Hoàng Văn Hoè rất sâu rộng.
Trong Hạc Nhân tùng ngôn có nhiều bài viết về Huế: An Định chu thứ (Trên thuyền về An Định), Hương kiều (Cầu sông Hương), Xuân giao (Ngày xuân tế giao)... Qua bài Lưỡng nang cẩm cú (Hai túi những câu thơ hay), ta nhớ lại tục chơi Thả thơ của người Huế xưa. Bài Tân Tỵ nguyên nhật triều hồi kỷ sự  (ngày mồng một Tết Tân Tỵ- 1881 về triều ghi lại) là những nét chân phác về một buổi tế mồng một Tết của vua trên đất sông Hương núi Ngự. Hương giang dạ phiếm chu (Sông Hương đêm trên thuyền) cho ta hiểu được đôi chút về những khát vọng lớn lao của tác giả. Đêm trên dòng Hương sao trời lấp lánh, ông buông cần câu cá, khi nhấc cần lên ngỡ câu được cả sao Ngưu, sao Đẩu:

Tinh thần ba diện sam si kiến
Ngộ bả trường can điếu Đẩu, Ngưu.
Trăng sao trên mặt sóng bồng bềnh lên xuống
Ngỡ nhấc cần, câu được cả sao Đẩu, sao Ngưu

Thơ chữ Hán xưa, có nhiều tác giả còn phải chạy theo vần theo ý. Vượt qua được sự gò bó, thơ Hoàng Văn Hoè diễn đạt được cả những cảm xúc phức hợp. Bài thơ tứ tuyệt Giang quán khiển ứng -VII có nhiều nét mới lạ:

Sổ khúc lan tường xuân thuỷ thâm
Thổ âm Thái bán tạp Nông âm
Khấu huyền ngã dục ca tường hoạ
Liêu hoạ dương hoa cách ngạn âm.

Mái chèo khoẻ, chèo thuyền lượn theo nước sông xuân sâu thẳm.
Nghe (thuyền bên) những tiếng địa phương
                                    nửa là tiếng Thái nửa tiếng Nùng
Gõ thuyền ta ca, mong có tiếng ai đó vọng lại
Chỉ có hoa dương liễu hoạ lại ở phía nam sông
.

Tác giả ca, muốn có ai đối đáp như hát quan họ, như hát ví nhưng chỉ có đám dương liễu phía nam sông: rung lên, lả tả hoa rụng.
Có nhiều câu thơ diễn đạt cả năng lực quan sát tinh tế, sinh động:
-Tùng trúc tứ vi bình tháp ảnh
Lâu đài nhất thốc đảo ba tâm
                                    (Đăng Phật Tích sơn)
Thông trúc bốn bề, hình tháp trên mặt đất ngả dài
Lâu đài một cõi, bóng in ngược dưới đáy nước.

-Sơn như khuynh thạch tương điền hải
Triều dục truy nhân cấp thượng sa
                                                (Lý Hoà hải ngạn)
Núi như nghiêng đá cùng nhau lấp biển
Sóng triều muốn duổi theo
                        người chạy gấp trên bãi cát.

Hạc Nhân tùng ngôn
lại có những câu thơ rất hàm súc:
Lục ỷ hữu nha, huyền tự thán
Trung thư vô thiệt quản năng ngôn
                                    (Thứ vận phục đồng niên...)
Vải the lụa biếc dù tốt đẹp vẫn phải nhờ đến
            người rao hàng, riêng dây đàn tự nói được
Cuốn sách không có lưỡi,
                        vậy mà có khả năng tâm sự.

Có những câu thơ mới đọc nghe lạnh vắng, nhưng ngẫm cho cùng, đó là nỗi niềm trăn trở vì nhân thế, là một nét chân dung của tác giả:
Vạn lý cô vân tuỳ độc điểu
Bách niên hoàng quyển thoại thanh đăng
                                    (Thư quán mạn đề)
Vạn dặm một cánh chim bay hoài
                                trong đám mây lẻ
Trăm năm quyển sách vàng
                        trò chuyện với ngọn đèn xanh
.
Thơ thời ấy, sau Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, cùng với Tùng Thiện vương Miên Thẩm, Tuy Lý vương Miên Trinh, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Thông còn có Hoàng Văn Hoè...
Là một tấm gương lớn về tinh thần dám xả thân vì nước, với Hạc Nhân tùng ngôn, Hoàng Văn Hoè còn là một trong số các nhà thơ xuất sắc của thế kỷ XIX.
D.P
(198/08-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • THANH TÙNG Trong các bậc mẫu nghi thiên hạ ít ai được như Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ. Bà là người mẫu mực về đức hạnh, yêu thương dân, nuôi dạy con giỏi và biết đối nhân xử thế; khi cần biết tham gia việc triều chính đúng mức, hiệu quả.

  • PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)

  • LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.

  • HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.

  • LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.

  • PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.

  • NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.

  • NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.

  • L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.

  • TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.

  • LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)

  • LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.

  • Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.

  • TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.

  • TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)

  • BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.

  • N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.