PHÚC ĐƯỜNG
Hổ Quyền là đấu trường hoàng cung (les Arènes royales) được xây dựng cách đây 162 năm dưới thời Minh Mạng.
Đấu trường Hổ Quyền - Ảnh: internet
Đây là công trình duy nhất thuộc loại này ở Á Đông. Riêng đối với Việt Nam, Hổ Quyền lại càng là một di tích lịch sử - văn hoá độc đáo tọa lạc trong lòng cố đô Huế.
Từ ga Huế, du khách đi lên đường Bùi Thị Xuân, men theo hữu ngạn sông Hương, ngang qua phường Đúc, đến ngã ba chợ Long Thọ rồi rẽ trái chừng 200m sẽ gặp ngay Hổ Quyền. Di tích này hiện thuộc địa phận thôn Trường Đá, xã Thủy Xuân, ngoại thành Huế (bản đồ 1).
Vùng đất Nam - Nam sông Hương, giới hạn từ trục lộ Nam Giao (nay gọi là đường Điện Biên Phủ) lên đến làng Nguyệt Biều - tức là gồm cả Phường Đúc cộng với một phần xã Thủy Xuân và Thủy Biều hiện tại - thuở xa xưa, chí ít là thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ này được gọi là Khu vực Hổ Quyền (quartier Arènes). Địa bàn này có rất nhiều công trình quan trọng đối với các vua chúa Nguyễn như điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ, phủ công chúa Bảo Thuận (con thứ 5 của vua Gia Long), lăng Tuy Lý Vương (húy Miên Trinh, con thứ 3 của vua Minh Mạng)... Ngoài ra còn có miếu Lịch Đại Đế Vương, miếu Lê Thánh Tôn, miếu Vũ Sư, đàn Sơn Xuyên, điện Voi Ré, thành Lồi... Ngay chợ Long Thọ bây giờ, xưa được gọi là chợ Hổ Quyền. Và con đường Bùi Thị Xuân hiện thời (trước 1975 mang tên Huyền Trân Công Chúa) thì trước kia chính là đường Hổ Quyền (Route des Arènes). Qua cách gọi các địa danh như thế, chúng ta hẳn thấy được tầm cỡ của đấu trường Hổ Quyền đối với kinh đô Phú Xuân thuở trước(1).
![]() |
Sơ đồ trường đấu Hổ Quyền |
Theo một bản đồ đời Hồng Đức (trong tập "Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư" in năm 1960) ở khu vực này có chứa hai chữ "tượng cứu" (Nơi nuôi voi). Như vậy, từ thế kỷ XVII, quân đội triều đình có thể đã lập một số chuồng voi ở địa điểm này(2). Đến đời các chúa và vua Nguyễn, nơi đây tiếp tục được dùng làm chỗ thuần dưỡng và huấn luyện voi chiến. Chính nơi này, vào năm 1830, hoàng đế Minh Mạng đã quyết định xây dựng Hổ Quyền.
Hổ Quyền là một đấu trường lộ thiên được thiết kế khá đồ sộ theo hình vành khăn gồm hai vòng tường đồng tâm. Tường dày 1,1 m ở nền và 0,5m ở đỉnh, xây bằng gạch vồ, ngoài trát vôi vữa, thi công cùng một kỹ thuật với thành quách các vua nhà Nguyễn.
Vòng tường ngoài cao 4,5 m, đường kính 45 m, chu vi 140 m. Vòng tường trong cao 6 m, đường kính 35 m, chu vi 110 m.
Hai vòng tường cách nhau 4,5 m ở nền, và 3 m ở đỉnh. Giữa hai bờ tường là đất được đắp ngang chiều cao của vòng tường ngoài, tạo nên một luân lộ (đường chạy vòng tròn) ngay trên miệng lòng chảo đấu trường. Để lên luân lộ, có hai cầu thang:
- Cầu thang A: 20 bậc dẫn lên ngay khán đài, dành riêng cho vua, hoàng gia và các bậc quốc khách.
- Cầu thang B: 15 bậc, cách khán đài dài 15 m về phía phải, dành cho quan quân cùng dân chúng.
Khán đài hình chữ nhật; diện tích 96m2, đắp cao 1,5m so với luân lộ, có bao lơn bọc phía sau và hai bên. Mặt tiền khán đài quay về hướng nam, từ đó nhìn thẳng xuống khu lòng chảo đấu trường. Đứng ở đây, ta quan chiêm được một vùng cảnh sắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng - bốn chung quanh: núi Kim Phụng, đồi Vọng Cảnh, thành Lồi, giáo đường Trường An, điện Voi Ré, nhà máy vôi Long Thọ... và nếu có điều kiện nâng cao khán đài thêm tí nữa, ta có thể thấy cả tháp Thiên Mụ, chùa Từ An lẫn cả vùng Kim Long bên kia dòng Hương "trường giang như kiếm lập thanh thiên",v.v...
Giữa hai cầu thang nói trên, tường thành Hổ Quyền có trổ một cổng khá rộng lắp khung cửa đá 1,9m x 3,9m. Đây là lối quản tượng dẫn voi (được nuôi gần đấy) vào lòng chảo đấu trường để tử chiến với con cọp hung hãn đã được nuôi sẵn trong 5 cái chuồng xây ngay ở chân tường thành phía đối diện khán đài.
5 chuồng này hình chữ nhật kích thước không giống nhau. 3 chuồng ở giữa 2,6m x 2,1m có trổ cửa 0,75m x 0,8m. 2 chuồng hai đầu 3,2 x 2,65m, có trổ cửa 1,1 x 1,8m. Có người phỏng đoán rằng chuồng to dành cho cọp, chuồng nhỏ cho báo(3). Bên trong mỗi chuồng hiện còn cái máng nhỏ bằng gạch từng dùng đựng thức ăn đồ uống cho thú. Trước mỗi chuồng có 4 móc sắt, móc cánh cửa bằng song sắt; cửa có thể kéo lên hạ xuống. Để che 5 chuồng này, ngày trước có lẽ có một hình thức mái lợp nào đó nhưng nay đã trống toang trống toác.
Ngay trên cửa chuồng chính giữa, đối diện với khán đài, là tấm bảng bằng đá có hai chữ Hán "HỔ QUYỀN" được chạm nổi rất sắc sảo. Bên trái bảng đá, có dòng chữ nhỏ khắc lõm chạy dọc như sau: Minh Mạng thập nhất niên chính nguyệt cát nhật tạo.
Đối chiếu ra dương lịch, ta biết được rằng đấu trường này đã được xây vào đầu năm 1830. Song, các trận đấu voi - cọp từng được tổ chức ở đây từ thời các chúa Nguyễn. Có tài liệu cho biết, từ năm 1748, một người Pháp tên là P.Poivre đã được chứng kiến trận huyết chiến giữa hai loài thú này do chúa Võ Vương (húy Nguyễn Phúc Khoát, nối nghiệp năm 1738, mất năm 1765) tổ chức suốt một ngày ròng với kết quả: 18 con cọp bị voi tiêu diệt(4). Như vậy, trước 1830, Hổ Quyền đã có một cơ sở tiền thân thế nào đấy chăng? Sau này, đến đời vua Thành Thái (huý Bửu Lâm, lên ngôi năm 1889, thoái vị năm 1907), Hổ Quyền còn được tôn tạo thêm lần chót. Và trận đấu voi - cọp cuối cùng cũng đã diễn ra dưới triều Thành Thái. Ấy là vào năm 1904(5).
Các trận đấu giữa voi và chúa tể rừng xanh ở Hổ Quyền, ngoài mục đích giải trí cho vua chúa, hoàng thân, quốc thích cùng các đình thần, có lẽ còn mang ý nghĩa tích cực đối với thời đại bấy giờ, là cổ súy việc tiêu diệt hổ - loài mãnh thú sơn lâm thường gieo rắc tai họa cho lương dân.
Đấu trường Hổ Quyền là một di tích lịch sử - văn hoá có quy mô lớn với loại hình kiến trúc cổ vô cùng độc đáo, rất đáng được bảo tồn và phát huy tác dụng (có thể đầu tư thành một tụ điểm tham quan - giải trí thu hút khách du lịch chẳng hạn). Nhưng tiếc thay, cùng chịu chung số phận với hàng loạt danh thắng khác trên đất thần kinh văn vật, bao nhiêu năm rồi Hổ Quyền vẫn bị phó mặc cho một cách đáng buồn.
Dẫu đây đó đã có đôi người cất tiếng kêu gọi duy tu, di tích Hổ Quyền vẫn lâm vào tình trạng phế tích. Hiện nay, quanh khu vực này cây cối um tùm, một số hộ cất nhà che lấp cả mặt tiền đấu trường. Trên tường thành và trong 5 chuồng thú, lau lách tha hồ chen mọc làm nứt nẻ nhiều chỗ. Ở khu vực lòng chảo, một thời người ta bỏ hoang hoá, những năm gần đây có tư nhân sử dụng mặt bằng để chiếu vidéo kinh doanh vào ban đêm, và bây giờ, một số gia đình vào đánh luống trồng khoai sắn. Hổ Quyền! Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Vì cảm thấy tiếc xót một di tích văn hoá - lịch sử có một không hai của quê hương đang đứng trước nguy cơ hư hại nặng nề và đã bị chìm lỉm quá lâu vào quên lãng, một lần nữa xin được gióng lên hồi chuông cấp báo:
- Hổ Quyền, S.O.S!
Vườn Ngọc, 1992
P.Đ
(TCSH52/11&12-1992)
-----------------------
(1) L. Cadière - Le Quartier des Arènes ; II. Souvenir des Nguyễn (B.A.V.H, No 3 Juillet - Septembre 1925, p.147-152).
Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam nhất thống chí. Bản dịch của Viện Sử học. Tập I. Nxb Khoa học xã hội, HN 1969.
(2) Hồng Đức bản đồ. SG 1962 tr. 92-93. Dẫn theo Lê Văn Hảo: Đấu trường Hổ Quyền ở ngoại thành Huế (Tạp chí Khảo cổ học, số 2, 1977).
(3) Lê Văn Hảo, TLđd, tr.90.
(4) Bửu Kế trong bài "Huế ngày xưa" (Tạp chí Đại học, 4, tháng 8-1962) cho rằng trận đấu voi-cọp mà Poivre mục kích là ở cồn Dã Viên. Điều này có lẽ thiếu chính xác về địa điểm.
(5) Thái Văn Kiểm - Cố đô Huế. SG 1960, tr91.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.