Hổ Quyền - đấu trường Hoàng cung: S.O.S

10:14 22/02/2022

PHÚC ĐƯỜNG

Hổ Quyền là đấu trường hoàng cung (les Arènes royales) được xây dựng cách đây 162 năm dưới thời Minh Mạng.

Đấu trường Hổ Quyền - Ảnh: internet

Đây là công trình duy nhất thuộc loại này ở Á Đông. Riêng đối với Việt Nam, Hổ Quyền lại càng là một di tích lịch sử - văn hoá độc đáo tọa lạc trong lòng cố đô Huế.

Từ ga Huế, du khách đi lên đường Bùi Thị Xuân, men theo hữu ngạn sông Hương, ngang qua phường Đúc, đến ngã ba chợ Long Thọ rồi rẽ trái chừng 200m sẽ gặp ngay Hổ Quyền. Di tích này hiện thuộc địa phận thôn Trường Đá, xã Thủy Xuân, ngoại thành Huế (bản đồ 1).

Vùng đất Nam - Nam sông Hương, giới hạn từ trục lộ Nam Giao (nay gọi là đường Điện Biên Phủ) lên đến làng Nguyệt Biều - tức là gồm cả Phường Đúc cộng với một phần xã Thủy Xuân và Thủy Biều hiện tại - thuở xa xưa, chí ít là thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ này được gọi là Khu vực Hổ Quyền (quartier Arènes). Địa bàn này có rất nhiều công trình quan trọng đối với các vua chúa Nguyễn như điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ, phủ công chúa Bảo Thuận (con thứ 5 của vua Gia Long), lăng Tuy Lý Vương (húy Miên Trinh, con thứ 3 của vua Minh Mạng)... Ngoài ra còn có miếu Lịch Đại Đế Vương, miếu Lê Thánh Tôn, miếu Vũ Sư, đàn Sơn Xuyên, điện Voi Ré, thành Lồi... Ngay chợ Long Thọ bây giờ, xưa được gọi là chợ Hổ Quyền. Và con đường Bùi Thị Xuân hiện thời (trước 1975 mang tên Huyền Trân Công Chúa) thì trước kia chính là đường Hổ Quyền (Route des Arènes). Qua cách gọi các địa danh như thế, chúng ta hẳn thấy được tầm cỡ của đấu trường Hổ Quyền đối với kinh đô Phú Xuân thuở trước(1).

Sơ đồ trường đấu Hổ Quyền

Theo một bản đồ đời Hồng Đức (trong tập "Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư" in năm 1960) ở khu vực này có chứa hai chữ "tượng cứu" (Nơi nuôi voi). Như vậy, từ thế kỷ XVII, quân đội triều đình có thể đã lập một số chuồng voi ở địa điểm này(2). Đến đời các chúa và vua Nguyễn, nơi đây tiếp tục được dùng làm chỗ thuần dưỡng và huấn luyện voi chiến. Chính nơi này, vào năm 1830, hoàng đế Minh Mạng đã quyết định xây dựng Hổ Quyền.

Hổ Quyền là một đấu trường lộ thiên được thiết kế khá đồ sộ theo hình vành khăn gồm hai vòng tường đồng tâm. Tường dày 1,1 m ở nền và 0,5m ở đỉnh, xây bằng gạch vồ, ngoài trát vôi vữa, thi công cùng một kỹ thuật với thành quách các vua nhà Nguyễn.

Vòng tường ngoài cao 4,5 m, đường kính 45 m, chu vi 140 m. Vòng tường trong cao 6 m, đường kính 35 m, chu vi 110 m.

Hai vòng tường cách nhau 4,5 m ở nền, và 3 m ở đỉnh. Giữa hai bờ tường là đất được đắp ngang chiều cao của vòng tường ngoài, tạo nên một luân lộ (đường chạy vòng tròn) ngay trên miệng lòng chảo đấu trường. Để lên luân lộ, có hai cầu thang:

- Cầu thang A: 20 bậc dẫn lên ngay khán đài, dành riêng cho vua, hoàng gia và các bậc quốc khách.

- Cầu thang B: 15 bậc, cách khán đài dài 15 m về phía phải, dành cho quan quân cùng dân chúng.

Khán đài hình chữ nhật; diện tích 96m2, đắp cao 1,5m so với luân lộ, có bao lơn bọc phía sau và hai bên. Mặt tiền khán đài quay về hướng nam, từ đó nhìn thẳng xuống khu lòng chảo đấu trường. Đứng ở đây, ta quan chiêm được một vùng cảnh sắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng - bốn chung quanh: núi Kim Phụng, đồi Vọng Cảnh, thành Lồi, giáo đường Trường An, điện Voi Ré, nhà máy vôi Long Thọ... và nếu có điều kiện nâng cao khán đài thêm tí nữa, ta có thể thấy cả tháp Thiên Mụ, chùa Từ An lẫn cả vùng Kim Long bên kia dòng Hương "trường giang như kiếm lập thanh thiên",v.v...

Giữa hai cầu thang nói trên, tường thành Hổ Quyền có trổ một cổng khá rộng lắp khung cửa đá 1,9m x 3,9m. Đây là lối quản tượng dẫn voi (được nuôi gần đấy) vào lòng chảo đấu trường để tử chiến với con cọp hung hãn đã được nuôi sẵn trong 5 cái chuồng xây ngay ở chân tường thành phía đối diện khán đài.

5 chuồng này hình chữ nhật kích thước không giống nhau. 3 chuồng ở giữa 2,6m x 2,1m có trổ cửa 0,75m x 0,8m. 2 chuồng hai đầu 3,2 x 2,65m, có trổ cửa 1,1 x 1,8m. Có người phỏng đoán rằng chuồng to dành cho cọp, chuồng nhỏ cho báo(3). Bên trong mỗi chuồng hiện còn cái máng nhỏ bằng gạch từng dùng đựng thức ăn đồ uống cho thú. Trước mỗi chuồng có 4 móc sắt, móc cánh cửa bằng song sắt; cửa có thể kéo lên hạ xuống. Để che 5 chuồng này, ngày trước có lẽ có một hình thức mái lợp nào đó nhưng nay đã trống toang trống toác.

Ngay trên cửa chuồng chính giữa, đối diện với khán đài, là tấm bảng bằng đá có hai chữ Hán "HỔ QUYỀN" được chạm nổi rất sắc sảo. Bên trái bảng đá, có dòng chữ nhỏ khắc lõm chạy dọc như sau: Minh Mạng thập nhất niên chính nguyệt cát nhật tạo.

Đối chiếu ra dương lịch, ta biết được rằng đấu trường này đã được xây vào đầu năm 1830. Song, các trận đấu voi - cọp từng được tổ chức ở đây từ thời các chúa Nguyễn. Có tài liệu cho biết, từ năm 1748, một người Pháp tên là P.Poivre đã được chứng kiến trận huyết chiến giữa hai loài thú này do chúa Võ Vương (húy Nguyễn Phúc Khoát, nối nghiệp năm 1738, mất năm 1765) tổ chức suốt một ngày ròng với kết quả: 18 con cọp bị voi tiêu diệt(4). Như vậy, trước 1830, Hổ Quyền đã có một cơ sở tiền thân thế nào đấy chăng? Sau này, đến đời vua Thành Thái (huý Bửu Lâm, lên ngôi năm 1889, thoái vị năm 1907), Hổ Quyền còn được tôn tạo thêm lần chót. Và trận đấu voi - cọp cuối cùng cũng đã diễn ra dưới triều Thành Thái. Ấy là vào năm 1904(5).

Các trận đấu giữa voi và chúa tể rừng xanh ở Hổ Quyền, ngoài mục đích giải trí cho vua chúa, hoàng thân, quốc thích cùng các đình thần, có lẽ còn mang ý nghĩa tích cực đối với thời đại bấy giờ, là cổ súy việc tiêu diệt hổ - loài mãnh thú sơn lâm thường gieo rắc tai họa cho lương dân.

Đấu trường Hổ Quyền là một di tích lịch sử - văn hoá có quy mô lớn với loại hình kiến trúc cổ vô cùng độc đáo, rất đáng được bảo tồn và phát huy tác dụng (có thể đầu tư thành một tụ điểm tham quan - giải trí thu hút khách du lịch chẳng hạn). Nhưng tiếc thay, cùng chịu chung số phận với hàng loạt danh thắng khác trên đất thần kinh văn vật, bao nhiêu năm rồi Hổ Quyền vẫn bị phó mặc cho một cách đáng buồn.

Dẫu đây đó đã có đôi người cất tiếng kêu gọi duy tu, di tích Hổ Quyền vẫn lâm vào tình trạng phế tích. Hiện nay, quanh khu vực này cây cối um tùm, một số hộ cất nhà che lấp cả mặt tiền đấu trường. Trên tường thành và trong 5 chuồng thú, lau lách tha hồ chen mọc làm nứt nẻ nhiều chỗ. Ở khu vực lòng chảo, một thời người ta bỏ hoang hoá, những năm gần đây có tư nhân sử dụng mặt bằng để chiếu vidéo kinh doanh vào ban đêm, và bây giờ, một số gia đình vào đánh luống trồng khoai sắn. Hổ Quyền! Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Vì cảm thấy tiếc xót một di tích văn hoá - lịch sử có một không hai của quê hương đang đứng trước nguy cơ hư hại nặng nề và đã bị chìm lỉm quá lâu vào quên lãng, một lần nữa xin được gióng lên hồi chuông cấp báo:

- Hổ Quyền, S.O.S!

Vườn Ngọc, 1992
P.Đ
(TCSH52/11&12-1992)

-----------------------
(1) L. Cadière - Le Quartier des Arènes ; II. Souvenir des Nguyễn (B.A.V.H, No 3 Juillet - Septembre 1925, p.147-152).
Quốc sử quán triều Nguyễn - Đại Nam nhất thống chí. Bản dịch của Viện Sử học. Tập I. Nxb Khoa học xã hội, HN 1969.
(2) Hồng Đức bản đồ. SG 1962 tr. 92-93. Dẫn theo Lê Văn Hảo: Đấu trường Hổ Quyền ở ngoại thành Huế (Tạp chí Khảo cổ học, số 2, 1977).
(3) Lê Văn Hảo, TLđd, tr.90.
(4) Bửu Kế trong bài "Huế ngày xưa" (Tạp chí Đại học, 4, tháng 8-1962) cho rằng trận đấu voi-cọp mà Poivre mục kích là ở cồn Dã Viên. Điều này có lẽ thiếu chính xác về địa điểm.
(5) Thái Văn Kiểm - Cố đô Huế. SG 1960, tr91.

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.