HỒ VĨNH
Vừa qua Tạp chí Sông Hương Đặc biệt số 19 tháng 12/2015 đã đăng ba bài viết cung cấp một số tư liệu có liên quan đến Hội Quảng Tri ở Huế của các tác giả sau đây:
Học giả Đào Đăng Vỹ - Ảnh: internet
1) Hồ Vĩnh, “Hội Quảng Tri ở Huế”.
2) Dương Phước Thu, “Hội quán Quảng Tri - Nhà đại chúng ở Huế”.
3) Phước Vĩnh, “Hội Quảng Tri qua một số sách báo”.
Mới đây chúng tôi tìm thấy thêm tư liệu có tựa đề: “Một cơ quan nghiên cứu quốc học”, tác giả là ông Đào Đăng Vỹ, hội trưởng Hội Quảng Tri Huế; bài viết đã công bố trên Tạp chí Tri Tân năm 1942. Đây là tạp chí văn hóa, trụ sở tòa báo ở Hà Nội.
“Hội Quảng Tri Trung kỳ ở Huế, cũng như hội Trí Tri ở Bắc Kỳ và hội Khuyến học ở Nam kỳ, mấy lâu theo chương trình buổi đầu, chỉ chú trọng về việc nghiên cứu pháp văn và hoạt động về mặt văn hóa Tây Phương. Mới đây, sau một cuộc bàn bạc, có mời nhiều nhà nho học lão thành và hầu hết các thanh niên trí thức ở Huế tham dự, Hội Quảng Tri đã mở rộng phạm vi hoạt động, và ngoài những công việc hội thường làm đặt một ban nghiên cứu quốc học để sửa lại chỗ thiên lệch bấy lâu.
Công việc của ban nghiên cứu gồm có những việc sau này:
1- Lập một thư khố Hán - Việt sẽ thu trữ những tài liệu và sách vở bằng chữ Hán hoặc chữ Trung Quốc hoặc của nước ta.
2- Tổ chức những tiểu ban để nghiên cứu những vấn đề học thuật hoặc để phiên dịch những sách xưa có quan hệ về đến quốc học, hoặc sách ngoại quốc có thể có ảnh hưởng cho học thuật nước nhà.
3- Tổ chức những lớp giảng về văn học, sử học nước nhà và Hán học.
4- Xuất bản một tập san để in những bài nghiên cứu và những bài giảng và xuất bản những sách phiên dịch có giá trị.
5- Liên lạc với những cơ quan khác ở Nam, Bắc Kỳ cũng theo đuổi một mục đích về văn hóa.
Ban nghiên cứu gồm có một ủy ban giám đốc và nhiều tiểu ban nghiên cứu hoặc phiên dịch.
Ủy ban giám đốc hiện nay gồm có sáu người:
Các ông: Ưng Bình: Ban trưởng
Đặng Văn Hướng: cố vấn
Trần Đình Cáp: cố vấn
Nguyễn Lân: thư ký
Lê Xuân Phương: phó thư ký
Đào Duy Anh: thủ thư.
Về thư khố thì đã mua được 2 nghìn rưỡi sách chữ Hán, quan trọng nhất là bộ Tứ khố toàn thư sơ tập gồm những sách trọng yếu và hiếm có trong bốn Bộ Kinh, Sử, Tứ, Tập, là tất cả những tinh hoa của văn học Á đông.
Ủy ban sẽ xin in lại hết cả các sách về lịch sử Việt Nam hiện có bản in ở Quốc sử quán và sẽ mua, chép, mượn hoặc xin những sách chữ Hán của nước ta. Về việc thu thập sách hạng này, Ủy ban chúng tôi trông mong ở các thế gia Đại tộc đương còn giữ được nhiều sách xưa hoặc gửi biểu sách cho hội, hoặc gửi hội giữ sách hộ, hoặc cho phép biên chép lại để tiện việc nghiên cứu của các học giả.
Về việc nghiên cứu và phiên dịch thì đã tổ chức được 5 tiểu ban chuyên trách những việc:
1- Đính chính và phiên dịch sách “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn.
2- Phiên dịch sách Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
3- Đính chính và chú giải bài “Tự tình khúc” của Cao Bá Nhạ.
4- Viết sách phổ thông về kinh tế học và xã hội học.
5- Viết sách phổ thông về triết học phương Tây.
Về việc mở lớp giảng thì đã mời được nhiều giảng viên tân học và cựu học. Đoàn thể giảng viên sẽ thảo chương trình trọn một năm và đem công bố. Muốn theo học những lớp ấy phải trả tiền chút đỉnh.
Ban nghiên cứu quốc học có nhận những tham dự thông tín ở xa, vậy chúng tôi mong rằng các nhà thức giả, đồng chí ở xa sẽ vui lòng giao thiệp với chúng tôi về các vấn đề học vấn.
Lại mong các ngài ở Huế để xin vào hội rất đông để ủng hộ công việc của chúng tôi theo đuổi cho chóng thành công.
Ai hỏi điều gì về việc hội xin cứ gửi thư cho: ông Đào Đăng Vỹ, hội trưởng Hội Quảng Tri Huế”.(1)
Qua nghiên cứu của chúng tôi, ông Đào Đăng Vỹ làm hội trưởng Hội Quảng Tri Huế trong gần 15 năm (1935 - 1949).
H.V
(SHSDB22/09-2016)
..........................................
(1) Đào Đăng Vỹ, “Một cơ quan nghiên cứu quốc học”, Tạp chí Tri Tân, năm thứ hai - số 42, tuần lễ từ thứ tư 8 đến thứ ba 14 Avril 1942, trang 23. Xem thêm Hồ Đăng Thanh Ngọc “Thêm một tư liệu liên quan đến Hội Quảng Tri - Huế”, báo Thừa Thiên Huế, 25/2/2016.
LÊ MINH PHONGDọc theo đôi bờ Sông Hương, nơi có những công viên quyến rũ là điểm trưng bày của một số công trình nghệ thuật.
NHỤY NGUYÊN(Xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương)
LÊ PHÙNGSau nhiều ngày cùng nhau trăn trở - nghĩ suy - hiệp lực - hiệp tâm của những anh, chị em nhạc sĩ ở Huế, Nhạc Quán đã chính thức trình làng với công chúng yêu thích âm nhạc tại Huế vào lúc 20h, ngày chủ nhật (02/01/2011) là ngày Đinh Tỵ (nguyệt đức hợp, tế tự, đính hôn) trong tiết trời vào xuân của Huế, có sáng nắng chiều mưa, có gió về đêm, có lòng người ấm áp, có không gian lãng mạn, trữ tình.
HỒ VĨNHMới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy được một văn bản có liên quan đến Phường Đúc Huế.
TƯỜNG THITôi trở lại Hương Trà bằng ký ức của hơn 20 năm trước, trên con đường đất băng qua những vườn thanh trà trĩu quả ven con sông Bồ thơ mộng để đến làng Lại Bằng, xã Hương Vân. Một xã tiếp giáp núi và đồng bằng, nơi đã ghi lại dấu ấn lịch chống giặc ngoại xâm của Thừa Thiên Huế - địa đạo Khe Trái.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTrong những năm gần đây, Huế đã được các nhà đông phương học và khách du lịch trong nước và ngoài nước lưu ý.
MAI KHẮC ỨNGLăng Minh Mạng nằm dưới chân núi Cẩm Kê thuộc thôn La Khê làng An Bằng huyện Hương Trà cũ, nay là thôn Liên Bằng, xã Hương Thọ, thành phố Huế. Địa thế dải đất này rất đẹp. Hiện thời cây cối ở chung quanh đã lùi xa để lại những khoảng trống nối dài trên các triền đồi thoai thoải, khu lăng trở nên lẻ loi hơn.
LÊ HUỲNH LÂMCó lẽ một trong những loài động vật gần gũi, gắn bó với người dân xứ Huế trong mọi thời cuộc là loài hến. Cho dù trải qua bao thăng trầm, bao biến cố trên mảnh đất nhỏ bé này, mọi thứ có thể thịnh suy nhưng hến vẫn trường tồn. Trường tồn như một nét văn hóa thầm lặng, khiêm tốn, không khua trương, ồn ào,… mà âm thầm tỏa ngát hương.
PHAN HỨA THỤYChùa Thiên Mụ là một công trình kiến trúc có qui mô lớn và xuất hiện khá sớm trong quá trình hình thành phát triển của văn hoá Phú Xuân. Cũng như phần lớn các công trình kiến trúc cổ khác, chùa Thiên Mụ từ khi mới được xây cất trở về sau lần lượt đã được dựng nhiều tấm bia, hoặc để ghi lại công việc tu tạo, hoặc đề thơ vịnh cảnh, hoặc ghi cảm tưởng trong những lần vãn cảnh chùa của một số vua chúa nhà Nguyễn.
NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(Tiếp theo SH số 5 – tháng 2 - 1984)
NGUYỄN ĐÌNH HÒE VÀ L.CADIÈRE(B.A.V.H. 1992, trang 189-203)HỒ TỊNH TÂM - Từ thời Gia Long, khi xây kinh thành Huế, một nhánh sông đã được ngăn chặn lại ở trên làng Kim Long hiện nay và dòng sông đó bị lấp đi ở một vài nơi, một số nơi khác thì được mở rộng và uốn nắn lại cho đều đặn. Chính một phần của nhánh sông ngày xưa ấy đã tạo ra Hồ Tịnh Tâm, nay ở tại bên trái đường Lục bộ, gần với Cầu kho, hay vùng nhượng địa (cho Pháp ở Mang Cá lớn).
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó lẽ thiên nhiên đã giữ một vai trò nào đó, thực quan trọng, trong sự tổng hợp nên cái mà người ta có thể gọi là “bản sắc Huế”. Bởi vì thiên nhiên bao giờ cũng biểu hiện một cách nhất quán giữa cái hằng cửu và cái biến dịch, giữa cái biến động và cái tĩnh tại.
MAI KHẮC ỨNGBất chợt. Tưởng như có con lợn chạy giữa sân điện Cần Chánh tại Hoàng thành Huế. Định thần lại tôi đã nhìn thấy chúng trong mấy ô trang trí bên thân hai chiếc vạc đồng đúc thuở Kim Long còn là phủ chúa dưới thời Hiền vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) mà lạc khoản lại ghi Thịnh Đức thứ 8 và Thịnh Đức thứ 10. Bản chú thích bên hai vạc này ghi là đúc năm 1660 và 1662.
L.N.D: Vào năm 1822, dưới triều Minh Mạng, một người Anh là John Crawfurd có dịp đến Huế và được hai người Pháp lúc bấy giờ đang làm quan ở đây là Chaigneau và Vannier hướng dẫn đi thăm Kinh Thành. Dưới đây là những gì mà Crawfurd đã viết về Huế trong ngày viếng thăm ấy: 29-9-1822. Chúng tôi dịch từ bản Pháp ngữ của H.Cossarat trong B.A.V.H. 1933, No1-2, tr.5-10.
PHẠM ĐĂNG TRÍThuở ấy, có nhiều người từ những miền đất màu mỡ nhưng vẫn dời nhà đến ở trên một vùng gò đồi đầy sỏi đá. Nguyên nhân lôi cuốn họ tới đây là do màu sắc thiên nhiên ở chốn này thật là thanh tú, đa dạng và không ngừng thay đổi.
LÊ VĂN HẢOTháng 12 năm 1979 tại thành phố Pitxanulôcơ (Pitsanulok) Thái Lan, ông Tổng Giám đốc Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (gọi tắt là UNESCO) đã triệu tập một cuộc họp của những chuyên gia nhằm chuẩn bị cho một Chương trình nghiên cứu các đô thành lịch sử ở châu Á. Chương trình này sẽ nhằm vào một số đô thành cổ kính đã từng đóng những vai trò có ý nghĩa trong sự phát triển và giao lưu của các nền văn hoá ở châu Á.
Chiều 8.6, tại Nam Châu Hội Quán trên vùng cỏ cây Kim Long xứ Huế, GALA TINH HOA SÔNG HƯƠNG đã được tổ chức nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa - Huế.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNỞ mục “Phương vị quê hương” này, tạp chí sẽ lần lượt đăng các bài tìm hiểu văn hoá ngắn gọn nhưng có… duyên văn chương. Chúng tôi vui mừng được sự hưởng ứng của các nhà nghiên cứu lão thành am hiểu Huế - Bình Trị Thiên như các cụ Bửu Kế, Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Đính, Phạm Đăng Trí… cùng các anh Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Thuận An… Chúng tôi cũng mong nhận được bài của các bạn ở các tỉnh miền Trung nói về phong vị quê hương mình để tạo được giao lưu văn hoá trên giải đất gắn bó lâu đời này.
MẶC KHÁCHHuế nguyên là đất đế đô, nơi sinh trưởng của vua chúa, chốn triều đình quan lại, đa số tao nhân mặc khách đều tụ họp về đây. Do đó mà tiếng nói của xứ Huế, trang nhã thanh tao, có khi lại nặng mùi “bề trên” hoặc kiểu cách đến buồn cười.
NGUYỄN HỮU ĐÍNHMột nhà văn tên tuổi địa phương - địa phương nhưng kiêm cả Trung ương - đã say sưa mô tả con sông Hương, với một đầu đề trớ trêu và duyên dáng: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Trớ trêu và duyên dáng hơn nữa là nêu lên câu hỏi mà không chịu trả lời.