Góp thêm tư liệu về Hội Quảng Tri ở Huế

09:36 04/11/2016

HỒ VĨNH

Vừa qua Tạp chí Sông Hương Đặc biệt số 19 tháng 12/2015 đã đăng ba bài viết cung cấp một số tư liệu có liên quan đến Hội Quảng Tri ở Huế của các tác giả sau đây:

Học giả Đào Đăng Vỹ - Ảnh: internet

1) Hồ Vĩnh, “Hội Quảng Tri ở Huế”.

2) Dương Phước Thu, “Hội quán Quảng Tri - Nhà đại chúng ở Huế”.

3) Phước Vĩnh, “Hội Quảng Tri qua một số sách báo”.

Mới đây chúng tôi tìm thấy thêm tư liệu có tựa đề: “Một cơ quan nghiên cứu quốc học”, tác giả là ông Đào Đăng Vỹ, hội trưởng Hội Quảng Tri Huế; bài viết đã công bố trên Tạp chí Tri Tân năm 1942. Đây là tạp chí văn hóa, trụ sở tòa báo ở Hà Nội.

“Hội Quảng Tri Trung kỳ ở Huế, cũng như hội Trí Tri ở Bắc Kỳ và hội Khuyến học ở Nam kỳ, mấy lâu theo chương trình buổi đầu, chỉ chú trọng về việc nghiên cứu pháp văn và hoạt động về mặt văn hóa Tây Phương. Mới đây, sau một cuộc bàn bạc, có mời nhiều nhà nho học lão thành và hầu hết các thanh niên trí thức ở Huế tham dự, Hội Quảng Tri đã mở rộng phạm vi hoạt động, và ngoài những công việc hội thường làm đặt một ban nghiên cứu quốc học để sửa lại chỗ thiên lệch bấy lâu.

Công việc của ban nghiên cứu gồm có những việc sau này:

1- Lập một thư khố Hán - Việt sẽ thu trữ những tài liệu và sách vở bằng chữ Hán hoặc chữ Trung Quốc hoặc của nước ta.

2- Tổ chức những tiểu ban để nghiên cứu những vấn đề học thuật hoặc để phiên dịch những sách xưa có quan hệ về đến quốc học, hoặc sách ngoại quốc có thể có ảnh hưởng cho học thuật nước nhà.

3- Tổ chức những lớp giảng về văn học, sử học nước nhà và Hán học.

4- Xuất bản một tập san để in những bài nghiên cứu và những bài giảng và xuất bản những sách phiên dịch có giá trị.

5- Liên lạc với những cơ quan khác ở Nam, Bắc Kỳ cũng theo đuổi một mục đích về văn hóa.

Ban nghiên cứu gồm có một ủy ban giám đốc và nhiều tiểu ban nghiên cứu hoặc phiên dịch.

Ủy ban giám đốc hiện nay gồm có sáu người:

Các ông: Ưng Bình: Ban trưởng
Đặng Văn Hướng: cố vấn
Trần Đình Cáp: cố vấn
Nguyễn Lân: thư ký
Lê Xuân Phương: phó thư ký
Đào Duy Anh: thủ thư.

Về thư khố thì đã mua được 2 nghìn rưỡi sách chữ Hán, quan trọng nhất là bộ Tứ khố toàn thư sơ tập gồm những sách trọng yếu và hiếm có trong bốn Bộ Kinh, Sử, Tứ, Tập, là tất cả những tinh hoa của văn học Á đông.

Ủy ban sẽ xin in lại hết cả các sách về lịch sử Việt Nam hiện có bản in ở Quốc sử quán và sẽ mua, chép, mượn hoặc xin những sách chữ Hán của nước ta. Về việc thu thập sách hạng này, Ủy ban chúng tôi trông mong ở các thế gia Đại tộc đương còn giữ được nhiều sách xưa hoặc gửi biểu sách cho hội, hoặc gửi hội giữ sách hộ, hoặc cho phép biên chép lại để tiện việc nghiên cứu của các học giả.

Về việc nghiên cứu và phiên dịch thì đã tổ chức được 5 tiểu ban chuyên trách những việc:

1- Đính chính và phiên dịch sách “Phủ Biên tạp lục” của Lê Quý Đôn.

2- Phiên dịch sách Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.

3- Đính chính và chú giải bài “Tự tình khúc” của Cao Bá Nhạ.

4- Viết sách phổ thông về kinh tế học và xã hội học.

5- Viết sách phổ thông về triết học phương Tây.

Về việc mở lớp giảng thì đã mời được nhiều giảng viên tân học và cựu học. Đoàn thể giảng viên sẽ thảo chương trình trọn một năm và đem công bố. Muốn theo học những lớp ấy phải trả tiền chút đỉnh.

Ban nghiên cứu quốc học có nhận những tham dự thông tín ở xa, vậy chúng tôi mong rằng các nhà thức giả, đồng chí ở xa sẽ vui lòng giao thiệp với chúng tôi về các vấn đề học vấn.

Lại mong các ngài ở Huế để xin vào hội rất đông để ủng hộ công việc của chúng tôi theo đuổi cho chóng thành công.

Ai hỏi điều gì về việc hội xin cứ gửi thư cho: ông Đào Đăng Vỹ, hội trưởng Hội Quảng Tri Huế”.(1)

Qua nghiên cứu của chúng tôi, ông Đào Đăng Vỹ làm hội trưởng Hội Quảng Tri Huế trong gần 15 năm (1935 - 1949).

H.V
(SHSDB22/09-2016)

..........................................
(1) Đào Đăng Vỹ, “Một cơ quan nghiên cứu quốc học”, Tạp chí Tri Tân, năm thứ hai - số 42, tuần lễ từ thứ tư 8 đến thứ ba 14 Avril 1942, trang 23. Xem thêm Hồ Đăng Thanh Ngọc “Thêm một tư liệu liên quan đến Hội Quảng Tri - Huế”, báo Thừa Thiên Huế, 25/2/2016.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.