Gọi Tên Người hay là Mối thần giao giữa Phan Bội Châu và Hàn Mạc Tử

15:54 09/12/2014

Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

Thi sĩ Hàn Mặc Tử

Báo Người Mới: số 4 (16.11.1940) kết thúc tin buồn “Hàn Mạc Tử đã qua đời” bằng một lời tương tự: “Chúng ta đã mất một người

Đơn giản mà thấm thía. Một ý nghĩa nảy từ hai cuộc đời, hai sự nghiệp. Tưởng chừng “cách nhau ngàn vạn dặm”. Mà lại gặp nhau trong chí hướng. Trong thân phận hẩm hiu nhưng nhà thơ đã phát huy mọi khả năng tâm não. “Đã sống mãnh liệt và đầy đủ... Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồnĐã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu”.

Mối thần giao giữa Phan Bội Châu và Hàn Mạc Tử

Trong cùng số báo Tin Tức nói trên lại có bài “Trút linh hồn” của Hàn Mạc Tử với câu còn ngân dài, ngân dài mãi “như hình nhớ thương”:

Ta còn trìu mến biết bao người…

Và trong Tin Tức trước đó một kỳ (27.10.1940), Phan Sào Nam đã cảm tạ không kém thiết tha những người điếu sống cụ:

Những ước anh em đầy bốn biển

Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian.

Trùng hợp trước hơi thở cuối cùng. Như đã trùng hợp ở bước đầu trên “Mộng Du thi xã”. Trong thần giao cách cảm. Tờ Phụ nữ tân văn (số 97, ngày 28.8.1931, tr.15) không ngờ đã xe mối duyên văn nghệ cho một nhà chí sĩ với một nhà thi sĩ. Bài “Phan Bội Châu tiên sanh mở hàng dạy thi” in ở trang trước, kèm bài thơ mẫu mượn hình ảnh chùa Phật để nói lên niềm non nước:

Ba chén xong rồi ai ấy bạn

Một pho kinh Phật một cây đèn.

thì ở ngay trang sau đã có bài “Chùa hoang” của P.T (Qui Nhơn) tức Phong Trần (Hàn Mạc Tử sau này) vọng lại:

Tiếng chuông tế độ rày đâu tá

Để khách trầm luân luống đợi chờ !

Mối thần giao kia chính cụ Phan đã nhìn nhận trong “một bức thơ” viết cho “P.T tiên sanh”, sau khi nhận được ba bài của thi sĩ gởi qua Thực Nghiệp Dân Báo (11.10.1931):

Kính thưa tác giả P.T tiên sinh,

Tác giả cho tôi đọc ba bài thơ, tôi lấy làm hân hạnh cho “Mộng Du Thi Xã” lắm; xem trong u oán cao tình, thanh tân nhã điệu, tôi chỉ phàn nàn rằng người xướng quá cao tất nhiên người họa phải ít, cho nên tôi chỉ tục điệu ba bài thơ mà thôi, còn như nói rằng tôi nối thơ được với tác giả thì tôi không dám. Ôi! Hồn giao nghìn dặm biết làm sao bắt tay nhau mà cười lớn một tiếng mới là thỏa hồn thơ đó”.

(theo Tin Tức Chúa Nhựt đăng lại trong mục báo tin Hàn Mạc Tử qua đời, ở số 9, 24.11.1940, tr.3)

Trong lúc chưa được biết văn bản đầu tiên về lời cụ Phan khen Hàn, đây là lời trích sớm nhất hiện tìm được. Sớm hơn và có phần khác với lời trích của Quách Tấn trong bài “Hàn Mạc Tử với thơ đường luật”, trong Người Mới số 6 (30.11.1940, tr.4): “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều song chưa gặp được bài nào hay đến thế… Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ, để bắt tay nhau, cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó.”

Chí sĩ Phan Bội Châu

                                                                        *          *

Các Bút Hiệu

Một điều đáng chú ý trong toàn văn bài này là Quách Tấn viết “Hàn Mạc Tử”, và tuy nói về các bút hiệu của Hàn nhưng chưa có giai thoại “vạch vành trăng non lên đầu chữ ‘a’ như trong Đôi nét về Hàn Mặc Tử, sau này.

Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử, Hàn Mạc Tử: chừng ấy vẫn chưa hết các bút hiệu của  Phanxicô-Nguyễn Trọng Trí ! Còn Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ và cả… “Mlle Mộng Cầm” nữa, như Hàn đã ký cuối bài “Vô tình” trong báo Sài Gòn (7.12.35), sau trở thành “Bẽn Lẽn” của Hàn Mặc Tử trong Ngày Nay (6.9.36)  rồi được đưa vào tập Gái Quê của Hàn Mặc Tử ! Ấy là chưa kể những “tên đẹp” khác hay “tên tếu” như Trật Sên, Cụt Hứng, Foong-Tchan v.v…

Gọi làm sao hết tên người ? Và dù không biết gọi thi sĩ Hàn Mạc Tử, nhưng chỉ biết sống với người sống bên mình, như anh Nguyễn Văn Xê hồi ở Qui Hòa thì cũng đã sao ?

Nhưng chứng tích của nhà thơ và nhà báo mệnh yểu danh thọ còn đó để giúp xác định lại những điểm mà trí nhớ trung thực của những người thân nghĩa nhất vẫn có thể vô hình không đúng với thực tế khách quan. Sự kiện tiêu biểu nhất là chính Hàn Mạc Tử, khi đăng lại hai bài “Chùa hoang” và “Gái ở chùa”  cùng những bài họa của cụ Sào Nam và các bạn thơ trong phụ trương văn chương tờ Công Luận (9.3.1935, tr.5) cũng đã ghi chú lầm: “Hai bài này chúng tôi đã đăng ở Thực nghiệp Dân Báo năm 1930…”. Kỳ thực là năm 1931, số ra ngày 11 tháng 10. Đấy là mới chỉ cách non 4 năm. Huống hồ những hồi ký viết hàng chục năm sau. Nói thế không có nghĩa là phủ nhận giá trị của những tang chứng quý báu đã giúp gần gũi thực tế.

Vậy đối chiếu các tư liệu với những lời Quách Tấn viết theo trí nhớ về các bút hiệu của Nguyễn Trọng Trí, sẽ thấy những sự kiện sau đây:

1. MINH DUỆ THỊ : còn thấy xuất hiện năm 1935-1936, cuối những bài đường luật:

- “Cảm tác” (Thường thường trâu cột ghét trâu ăn), báo Sài Gòn, 12.10.35, tr.3.

- “Ban mai uống nước trà và “Cây đàn nguyệt, báo Sài Gòn, 30.12.35, tr.3.

-  “Xuân về” (Ba vạn giang sơn khác hẳn rồi), báo Sài Gòn 3.2.36, tr.7.

2. PHONG TRẦN : ngoài thơ ra, còn ký 22 bài văn xuôi trong báo Tân Tiến (1936-1938) và 16 bài văn xuôi trong báo Tiến Bộ (1938-1939) thuộc đủ loại: phóng sự, thời đàm, xã thuyết, bình luận văn chương, truyện dài nghệ thuật…

3.LỆ THANH : vẫn ký song song với Hàn Mặc Tử trong các báo Công Luận (1934-1935), Tân thời (1935), Sàigòn (1935-1936). Và còn ký ở Trong Khuê phòng (1939) đồng thời với Hàn Mạc Tử.

4.HÀN MẶC TỬ : xuất hiện từ ngày 29.3.1934 trên phụ trương phụ nữ của tờ Công Luận, dưới hai bài đường luật “Gái chửa hoang” và “Vô đề”. Và thường xuyên trên các báo vừa kể trừ Trong Khuê phòng.

  1. HÀN MẠC TỬ : ký thường xuyên các bài đăng Trong Khuê phòng (1939), Người Mới (1940), Tin Tức Chúa Nhựt (1940). Chính Quách Tấn, tác giả “Hàn Mặc Tử với thơ đường luật trong số Người Mới đã kể ở trên, đã viết không dấu “ă” trên chữ “Mạc” trong toàn bài. Bài tựa cho Tinh Huyết của Bích Khê, do Trọng Miên xuất bản năm 1939, cũng ký Hàn Mạc Tử. Và các bạn của Hàn như Bùi Tuân, Trần Thanh Địch, Trần Tái Phùng, Hoàng Trọng Quỵ, Hoàng Trọng Miên, Bích Khê, Hoàng Diệp lúc đó trong các báo, cũng như Trần Thanh Mại, Hoài Thanh, và Hoài Chân sau này trong tác phẩm của mình, đều viết không có dấu “ă” trên chữ “Mạc”.

Những dữ kiện trên cho phép xác định lại đôi điểm có liên hệ đến niên biểu và việc sáng tác của Hàn:

  1. Không có sự tuần tự bỏ bút hiệu cũ, khi lấy bút hiệu mới, như Quách Tấn viết: “Khi mới bước vào làng thơ, Tử lấy hiệu là Minh Duệ Thi. Sau đổi là Phong Trần. Lại đổi là Hàn Mạc Tử. Sau cùng mới lấy hiệu Hàn Mặc Tử” (Đôi nét về Hàn Mặc Tử: Văn số 73-74 (7.1.67) tr.48; nxb. Quê mẹ, Paris, 1988 tr.12).

Điển hình là trên cùng một trang Sài GònVăn Chương (phụ trương văn chương của báo Sàigòn) có bài của Minh Duệ Thị như đã dẫn trong mục 1, thì đồng thời cũng có những bài ký Lệ Thanh và Hàn Mặc Tử. Như vậy là ba bút hiệu một trật !

  1. Không thấy có bài nào ký Hàn Mạc Tử trước Hàn Mặc Tử về thời gian, mà chỉ thấy ngược lại.
  2. Không phải “mãi đến năm 1935 (hay 1936) vào chủ bút tờ phụ trương văn chương báo Sàigòn thi sĩ mới lấy hiệu Hàn Mặc Tử, và cũng từ báo đó thi sĩ mới bước qua làng “thơ mới”, như Quách Tấn trong bài “Hàn Mạc Tử với thơ đường luật”, làm những người dựa vào đó như Hoài Thanh, Hoài Chân cho đến Từ điển văn học (KHXH, Hà Nội, 1983) cũng rập theo.

Sự thực thì ngay từ 29.3.1934 và trên Công Luận đã có bút hiệu Hàn Mặc Tử (có dấu ‘ă’) như đã dẫn ở số 4 đoạn trên. Và cũng trên Công Luận đã có những vần thơ mới đầu tiên, mở đầu và kết thúc của bài văn “Giấc mộng đêm thu” ký “Lệ Thanh nữ sĩ”:

Ôi trăng thu

Ôi trăng thu

Bóng nhạn tím sương đã mịt mù

Mối sầu tư

Bồng con giọt lụy năm canh nhỏ

Cơn mưa gió

Tê tái lòng em mấy điệu từ

Mảnh trăng thu.

(Công luận 22.3.1934, tr.3: Phụ trương phụ nữ)

Còn nếu kể bài thơ mới riêng biệt hẳn, thì cũng trên Công luận (6.4.1935, tr.5: Phụ trương văn chương) có bài “Sống khổ và phấn đấu” ký Hàn Mặc Tử, trước các bài thơ mới trên tờ Sàigòn:

Sao tôi thấy cuộc đời máu me lênh láng,

Như bãi sa trường trong lúc hỗn loạn.

Sao tôi thấy dân chúng bị lầm than

Dưới bóng mặt trời đầy dẫy hào quang

  1. Sở dĩ bút hiệu “Hàn Mặc Tử”: được biết nhiều hơn là nhờ các tuyển tập Thơ Hàn Mặc Tử đã phổ biến rộng hơn. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các văn kiện cuối đời và liền sau cái chết của nhà thơ, từ khoảng 1939 đến 1941 thì “Hàn Mạc Tử” là tên hiệu sau cùng theo người vào cõi thiên thu.

*          *

*

Đối với bút hiệu cũng như đối với bản thân và cuộc đời – qua các sáng tác của Hàn, những phần đã xuất bản và những phần chưa thành tập, một số thơ và khoảng 90 bài văn xuôi, trên gần 20 tờ báo ở cả Trung Nam Bắc - hình như nhà thơ không khai trừ đường lối gì, nhưng đón nhận muôn hình, muôn vẻ của cuộc sống và lòng người để khai phóng “hết những anh hoa huyền bí” và “quy tụ, thâu về một mối”.

Cái “mối” mà cụ Phan Sào Nam, chủ nhân “Mộng Du thi xã” đã gợi lại trong hai câu đối tặng khách hưởng ứng bốn phương, trong Thực Nghiệp Dân Báo, 23.8.1931:

Duyên văn tự lai lai láng láng nước biếc non xanh,

Mối tinh thần có có không không trời cao bể rộng


Trích từ báo Tin Nhà, số 3, 1992, Paris

 
Nguồn: Phạm Đán Bình - VHNA

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐÌNH CHI
                        Hồi ký

    KỶ NIỆM 102 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 19-5-1890 _ 19-5-1992.

  • THÁI VŨ

    Nguyễn Phúc Đảm (sau này là vua Minh Mạng), sinh năm 1791 tại Gia Định, là con trai thứ 4 của Vua Gia Long, Nguyễn Phúc Ánh, nối ngôi vua năm 1820 lúc 30 tuổi.

     

  • TỪ HỒNG QUANG     

    Thông thường, khi vui người ta nghĩ đến những điều vui và kể lại cho bạn bè nghe. Nhưng ông cha ta có câu: “Không ai nắm chặt tay từ sáng đến tối”. Lại có câu: “Bảy mươi chưa hết què, chớ khoe mình lành”.

  • ĐÔNG HÀ   

    Tôi không biết từ đâu, tôi lại tha thiết yêu những câu hát đẹp như mơ được cất lên từ chị, có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền

  • HÀ KHÁNH LINH

    Theo hẹn, tôi đến trước vài phút ngồi ở salon khách sạn Hương Giang - lơ đãng nhìn những người đi lại trong hành lang.

  • TRẦN NGỌC TRÁC

    Như duyên nợ, chúng tôi đã đồng hành cùng nhau qua series ký sự “Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du”(1).

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Vào đúng 9 giờ đêm 26 tháng 3 năm 1975, chúng tôi vui sướng đến nghẹn ngào nhận tin vui Huế đã được giải phóng qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội. Tiếp đến là mệnh lệnh tất cả sẵn sàng hành quân về Huế. Không ai không mong chờ niềm vui ấy, nhưng những người lính quê Thừa Thiên, trong đó có tôi đều vui mừng vì sắp được trở lại quê nhà!

  • PHI TÂN

    1.
    Buổi chiều trên đường đi làm về thấy một chị phụ nữ bày bán những con heo đất bên vỉa hè màu xanh, đỏ, vàng, cam nhìn thật vui mắt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Hồi ức làm ta muốn khóc...
                            (Vasiliev)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Vua Minh Mạng có 78 hoàng tử, được giáo dưỡng đàng hoàng, hầu hết các hoàng tử có học hạnh, hoàng trưởng tử trở thành vua hiền Thiệu Trị, một số trở thành vương công nổi tiếng như Thọ Xuân vương, Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương…

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN   

    Chưa bao giờ tôi được lội bộ đùa chơi với cỏ thỏa thích như bao lần khai hội Festival ở Huế. Đêm, giữa cái triều biển người nối đuôi nhau từ khắp các ngả đường hướng về khu Đại Nội, tôi và em mồ hôi nhễ nhại, hai đôi chân rã rời, đến nỗi em phải tháo giày cầm tay, bước đi xiêu lệch.

  • HÀ KHÁNH LINH   

    Bão chồng lên bão, lũ lụt nối tiếp lũ lụt. Miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng chưa bao giờ phải hứng chịu thiên tai dồn dập khủng khiếp đến mức chỉ trong vòng trên dưới một tháng mà có đến sáu cơn bão mạnh với hai áp thấp nhiệt đới, đã cướp đi nhiều sinh mạng và xóa sạch tài sản của những con người suốt một đời chắt chiu dành dụm xây cất lên...

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Một buổi chiều năm 1968, chúng tôi nhận lệnh tập trung tại một khu vườn thuộc làng (nay là phường) Kim Long.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Mười năm trước đây, một sự kiện văn hóa diễn ra tại Huế đã khiến nhiều người ngạc nhiên và tự hào: Huế từng có Nhà xuất bản Tinh Hoa xuất bản các ấn phẩm âm nhạc sớm nhất toàn cõi Đông Dương, sự kiện Gala Tinh Hoa - Sông Hương nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa. Sự kiện đó đã làm rung động nhiều trái tim yêu âm nhạc, nhất là những ai mê lịch sử Tân nhạc Việt Nam.

  • HÀ LÂM KỲ

           Hồi ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tôi vốn là người lính. Sau Mậu Thân 1968, một số phóng viên báo Cờ Giải Phóng - Huế hy sinh, một số bị thương ra Bắc, tôi được thành đội trưởng Huế cử biệt phái sang làm phóng viên báo Cờ Giải Phóng, sau mấy năm thì trở thành phóng viên thật sự.

  • Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (18/9/1945 - 18/9/2020)

    DƯƠNG PHƯỚC THU

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    "Đồng Khánh - mái trường xưa" là tên tập đặc san được phát hành tại Huế nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập trường Đồng Khánh vào đầu tháng ba này.

  • Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)    

    DƯƠNG HOÀNG