Giới thiệu Chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế - Nhà thơ Võ Quê

15:32 04/09/2009
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

Nhà thơ Võ Quê - Ảnh: L.H.X

Từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 8 năm 1973, anh bị kẻ thù bắt và giam ở nhà tù Côn Đảo. Những tháng ngày bị đày ải, anh vẫn luôn giữ vững ý chí và niềm tin vào tương lai Cách mạng. Tập thơ Một thuở xuống đường (NXB Thuận Hoá, 2001) đã ghi lại chặng đường lịch sử ấy. Mặc dù làm thơ chủ yếu là để cổ động, tuyên truyền nhưng nhiệt tình cách mạng đã giúp anh viết được những vần thơ đầy hào khí và dồi dào cảm xúc, như những bài: Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa, Bài thơ viết trên lá bàng, Hai người bạn... Sau 1975 đến nay, anh từng là cán bộ Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế; Chánh văn phòng Hội, Phó rồi Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế; Đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Huế; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam... Võ Quê là một trong những người có công đầu trong việc phục hồi và phát triển nghề ca Huế trên sông Hương. Tập sưu tầm lời ca Huế Tiếng nói Hương Bình của anh đã nhận giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Anh cũng đã nhận được một số giải thưởng có giá trị khác như giải của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, giải thưởng Cố đô... Trong hàng chục tập thơ đã xuất bản của anh thì những bài anh viết về làng Chuồn ghi được dấu ấn hơn cả. Làng Chuồn (An Truyền), xã Phú An, huyện Phú Vang nổi tiếng rượu ngon là quê hương của anh: Ơi làng Chuồn ơi cánh võng yêu thương/ Đang chao vỗ trên hồn tôi nhịp sóng/ Mặt đầm xanh cánh chuồn bay sức sống/ Ngọn gió nồm xao xuyến những bờ tre (Với làng Chuồn). Những năm gần đây, ở Huế lưu truyền một số bài “thơ lái” của Võ Quê. Đây là cách chơi thơ hết sức độc đáo đã có từ thời cụ Nguyễn Khoa Vy, Ưng Bình Thúc Dạ. Nhà thơ Võ Quê có cách lái cũng khá hóm hỉnh không kém các bậc tiền nhân. Một trong những bài “thơ lái” được nhiều người nhắc nhở là bài anh viết nhân trận lụt lớn năm 1999, ở Huế: Trời lụt ca nhi cũng trụt lời/ Trời đong mưa lũ xuống trong đời/ Vái lạy lụt tan lành váy lại/ Đời cho du khách dạo đò chơi.
     
MAI VĂN HOAN giới thiệu



Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa

khi mùa đông rớt xuống vai người
chiếc lá vàng khô chết hồn vui
lòng em có đau ơi người tù thiếu nữ
manh áo nâu bùn em
nép mình đằng sau cánh cửa
những cánh cửa chua ngoa
giam hãm bóng chim hiền

giọt nước mắt em rưng rức từng đêm
ta biết em đang vo thành lửa bỏng
ngày em đến đây
ngờ nghệch vô cùng
tội tình gì
một sáng ven sông
lũ chúng bạo hành em
lưỡi lê ghìm đầu súng
mẹ rên xiết gào lên uất hận
con tôi! tội nghiệp con tôi
Hai ơi con đã đi rồi
vườn hoang cỏ cháy mẹ ngồi khóc con

từ đó không còn bay áo mỏng
trên quê hương hào khí ngất Trường Sơn
trong khám lạnh lòng càng cao căm phẫn
em lớn khôn theo chí căm hờn

em đang mơ ngày bứt xiềng bạo lực
đời hồn nhiên hoa bướm thong dong
sau cánh cửa nhà giam nụ cười thơm giấy mực
tiếng hát em về réo rắt giòng sông

ơi người tù thiếu nữ trưa nay
đang quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi
hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng
ta biết lòng em đang rực hồng biển lửa
chờ gió ngày bão lớn thổi bùng lên
Chí Hòa Tân Hiệp Côn Sơn
cuồng phong Thừa Phủ cuốn tan ngục tù
mắt em sáng nắng mùa thu
tình long lanh ý ngoc
em đang mơ ngày bạo quyền ngã gục
xác chúng phơi trên ngưỡng cửa đề lao
kiêu hùng tóc biếc bay cao
em tung nón rách
em gào tự do!

ngày mai trên những chuyến đò
có cô con gái học trò sang sông
áo bay thơm má em hồng
cờ vươn cao ngọn gió
Thừa Phủ ơi! Thừa Phủ ơi!
Lòng ta hồng biển lửa!


Viết trên đồi Vọng Cảnh


Ly rượu ai vùi trong cỏ?
Tình cờ tôi nhặt ly lên
Lá úa mục đọng mùn men sứ
Cầm ly tôi bỗng dưng thèm
 
Thèm gặp bạn trong chiều Vọng Cảnh
Nâng ly hào sảng đón hoàng hôn
Sông Hương xanh, mặt trời rực đỏ
Chợt hòa tím sắc quê hương
 
Ly  rượu ai vùi trong cỏ?
Phải người xưa gửi dặn người nay:
Lãng mạn uống tận cùng trời đất
Thiên nhiên chỉ một chốn này!
 
Huế chốn này thiên nhiên ban tặng
Người bốn phưong thơ túi rượu bầu
Đêm trăng sao điệu đàn câu hát
Ngày tuổi thơ diều no gió bay cao
 
Ly rượu ai vùi trong cỏ
Biết ơn đấng khuất mặt khuất mày
Bảy trăm năm Huyền Trân công chúa
Khổ đau đời cho hạnh phúc hôm nay
Ly  rượu ai vùi trong cỏ
Xanh trong em làn hương dòng sông
Đỏ trong tôi ánh trời Vọng Cảnh
Tím trong nhau hồn nước thủy chung!
                                               
Vọng Cảnh, 5.4.2005


Với làng Chuồn
 
Chắc cánh chuồn bay giỡn sóng đầm xanh
Nên tên làng khai sinh từ ấy
Tên làng Chuồn nâng đời tôi lớn dậy
Từng tháng ngày trong sáng thuở hoa niên

Tiếng gõ chài thôi thúc gọi triều lên
Hồi trống đình giục vầng trăng về xóm
Chuông chùa ngân đồng làng thơm hương cốm
Những câu thài thay tiếng mẹ ru nôi

Hai cuộc chiến đi qua làng mất mát chia phôi
Tôi xa làng nổi trôi bèo dạt
Đọng giữa lòng bâng khuâng câu hát
Giáp Đông là giáp Đông còi...(*)

Nghĩ về làng thương quá làng ơi
Còn đâu những anh Xức mệ Mè mệ Bướm...
Đời cùng khổ kiếp người vay mượn
Tiếng nợ đòi rứt thịt tuổi thơ tôi

Nay làng đã giàu thêm tên đất tên người
Giáp Giữa giáp Đông đã có thêm Đồng Miệu
Lúa mọc quanh nhà nghe đằm men rượu
Con gái con trai làng bơi giữa mùa trăng

Mẹ làng Chuồn dẫu một đời gian truân
Hai đầu gánh cá đầy oằn vai mẹ
Hạnh phúc mẹ mẹ dành cho lớp trẻ
Áo nối dài thành một nắng hai sương

Ơi làng Chuồn ơi cánh võng yêu thương
Đang chao vỗ trên hồn tôi nhịp sóng
Mặt đầm xanh cánh chuồn bay sức sống
Ngọn gió nồm xao xuyến những bờ tre


(*) Giáp Đông là giáp Đông còi
Con đam con rạm thì coi bằng vàng
(Ca dao)


(246/08-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Đọc “Dám ngoái đầu nhìn lại” - Tập Phê bình văn học của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Hội Nhà văn, 2021)

  • NGÔ THỜI ĐÔN

    Trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) lâu nay mới được dịch thuật, giới thiệu ít nhiều ở phần thơ.

  • PHẠM XUÂN DŨNG    

    (Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)

  • HỒ THẾ HÀ  

    Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một tác giả/ hiện tượng văn chương, báo chí và văn hóa ở Việt Nam đầy ấn tượng của thời hiện đại, nhưng trước tiên, ông được biết đến với tư cách một nhà thơ từ thuở Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam (1942).

  • TÔN THẤT DUNG

    Nghe tin nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục qua đời, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi dường như có ai đọc những câu ca từ trong bài Có một dòng sông đã qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!

  • LÊ THỊ ĐỨC HẠNH

    Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.

     

  • NGUYỄN THANH TRUYỀN

    Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.

  • PHẠM XUÂN DŨNG  

    (Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)

  • PHẠM PHÚ PHONG   

    Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).

  • PHONG LÊ    

    Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.

  • LÊ HỒ QUANG   

    Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?

  • VÕ QUÊ    

    Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    (Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020) 

  • HỒ THẾ HÀ   

    Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.

  • YẾN THANH  

    Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…

  • ĐỖ THU THỦY  

    1.
    Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.

  • NGƯỜI THỰC HIỆN:

    Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.

  • NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG     

    Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).

  • LÊ NGUYỄN LƯU

    Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...