GRAHAM GREEN
Cái chết đến kề như một nỗi nghiệt ngã day dứt mà ta hổ thẹn không dám thổ lộ với bạn bè hoặc đồng nghiệp.
Minh Họa: Phạm Đại
Tuy vậy ta vẫn ấp ủ một nỗi mong ước muốn tâm sự với một ai đó - có thể là một kẻ không quen giữa phố - Athur Burton mang trong lòng nỗi bí mật của mình - từ phòng ăn đến nhà bếp rồi lại từ nhà bếp ra đến phòng ăn, hoàn toàn giống như bao năm nay anh mang dọn những món ăn và chuyển những đề nghị của khách hàng tại một quán ăn ở Kensington, quán ông August. Quán không có vẻ gì là Pháp ngoài cái tên và bản thực đơn: thực đơn giới thiệu những món ăn Anh mang tên Pháp và cứ mỗi món lại có lời giải thích dài dòng bằng tiếng Anh.
Tối thiểu hai lần mỗi tuần, có một cặp vợ chồng người Mỹ đặt riêng một bàn ăn nhỏ ở góc quán, cạnh cửa sổ. Người chồng chừng 60 tuổi, vợ thì gần 50, một cặp vợ chồng hạnh phúc.
Có những hạng khách mà ngay lần đầu tiên gặp gỡ người ta đã có thiện cảm. Họ tham khảo ý kiến Athur Burton trước khi đặt món ăn và kế đó ngợi khen anh về cách góp ý chọn lựa của anh. Ngay cả việc chọn rượu, họ cũng hoàn toàn giao phó cho anh, và kể từ lúc đến quán lần thứ hai, còn hỏi han anh những chuyện đời tư nho nhỏ, như thể Athur cũng là một khách ăn mà họ mong biết rõ.
- Anh làm việc tại quán này đã lâu rồi chứ?" Ông Hogminster hỏi (Một cái tên đặc biệt mà Athur Burton đã khám phá được lúc cái ông người Mỹ này gọi điện thoại để giữ bàn trước).
- Chừng hai mươi năm. Hồi tôi mới đến làm, quán này không phải thế. Hồi đó gọi là quán Quee’s.
- Thế thì trước kia tốt hơn nhỉ?
Athur Burton cố gắng giữ trung thực.
- Tôi không cho rằng tốt hơn. Chỉ giản dị hơn thôi. Nhưng thị hiếu thì không biến đổi.
- Ông chủ của anh là người Pháp chứ?
- Thưa ông không, nhưng tôi chắc rằng ông đã du lịch nhiều ở Pháp.
- Chúng tôi rất mãn nguyện khi có sự giúp đỡ của anh. Chúng tôi không biết hết mọi chữ Pháp trên thực đơn.
- Nhưng thưa ông, đã có lời giải thích bằng tiếng Anh.
- Tôi tin rằng người ta cũng không hiểu cái tiếng Anh ấy nốt. Ngày mai thế nào chúng tôi cũng trở lại đấy nếu anh có thể dành riêng cũng cái bàn này cho chúng tôi, Athur ạ, đúng không nhỉ? Dường như tôi nghe ông chủ anh gọi anh như thế?
- Rất đúng, thưa ông. Tôi sẽ chú ý để dành riêng cho ông bà chỗ này.
- Và những lời góp ý của anh nữa, Athur. Bà Hogminster nói.
Anh lấy làm xúc động vì cách gọi anh bằng tên riêng và việc bà Hogminster mỉm cười với anh hết sức thân thiện. Anh chưa hề tưởng đến điều như thế trong suốt bao nhiêu năm phục vụ.
Athur vốn có thói quen kín đáo quan sát khách hàng chỉ vì để anh vẫn còn tiếp tục yêu thích nghề nghiệp bởi lẽ từ nay anh không thể đổi nghề được nữa. Anh cảm thấy già nua, chẳng có gì kích thích anh đổi thay. Anh biết giờ đây đã quá muộn "Nỗi nghiệt ngã của cái chết" đã chạm tới anh.
Thường khi vào buổi tối, lúc trở về nhà - nếu có thể gọi là nhà - một căn phòng có đồ đạc và một vòi nước tắm chung - anh lại hồi tưởng một số khách hàng. Những cặp vợ chồng ăn trưa với nhau dường như với vẻ lạnh nhạt và chực đợi khách mới xuất hiện với một vẻ khao khát nào đấy, lúc họ có điều buộc phải trao đổi với nhau. Những cặp tình nhân mới kết không thèm để ý gì đến mọi sự trên đời. Đôi khi lại là một thiếu phụ trẻ, đã có chồng (anh luôn luôn liếc nhìn bàn tay trái của họ) vẻ ưu tư, có một gã đàn ông nhiều tuổi hơn nàng đi kèm. Nàng nói nhỏ giọng hoặc im bặt lúc có người ngồi vào bàn kế bên - mà Athur Burton mong sao có thể để trống được, để cặp kia có thể giải quyết vấn đề riêng tư được thoải mái.
Đêm ấy lúc trở về nhà Athur nghĩ ngợi đến ông bà Hogminster. Anh tiếc đã không nói được nhiều hơn với họ. Anh cảm thấy rằng có thể tin cậy được họ cũng như mọi kẻ xa lạ gặp gỡ giữa phố. Ít ra anh cũng có thể nói bóng gió về nỗi nghiệt ngã day dứt ấy mà lâu nay vẫn chia cách anh với ông giám đốc, với ông đầu bếp, với những người phục vụ và với những tay rửa bát - Không gì hết ngoài một lời bóng gió, hẳn nhiên, vì anh chẳng muốn làm phiền ai.
Hôm sau, họ đến muộn nửa giờ. Ông giám đốc muốn dành bàn ấy cho khách khác cũng muốn ngồi nơi ấy. Ông bảo:
- Họ sẽ không đến đâu. Dẫu sao, họ cũng có thể chọn ba bàn còn lại.
- Nhưng họ lại ưa ngồi nơi đây và tôi đã hứa để dành cho họ - Athur bảo và còn nói thêm "Những người ấy rất tử tế".
Suýt nữa anh buộc phải thuận theo ý ông chủ nếu cặp Hogminster không đến kịp thời.
- Tôi rất lấy làm tiếc, Athur ạ, chúng tôi đến muộn quá. Anh xúc động rằng bà Hogminster vẫn còn nhớ tên riêng của anh.
- Nhằm vào ngày bán hàng đại hạ giá. Chúng tôi bị mê hoặc.
- "Bà ấy" bị mê hoặc, ông Hogminster chữa lại.
- Ô, ngày mai rồi đến lượt ông đấy thôi.
- Có những quán ăn gần những gian hàng bán đồ nam giới hơn đấy. Athur giải thích - Tôi có thể giới thiệu cho ông bà một quán đàng phố Jermyn.
- Ồ, nhưng chúng tôi lại thích quán bà Augustine này.
- "Quán ông Auguste" - Ông Hogminster chữa lại.
- Vả lại có anh góp ý cho chúng tôi rất tốt nữa, anh Athur ạ. Chúng tôi khỏi phải nghĩ ngợi gì cả.
Kẻ mang trong lòng một niềm bí mật là một người rất cô độc. Đối với Athur, có thể vén lên đầu chỉ một góc màn bí mật cũng đủ là một niềm yên ủi nhẹ lòng rồi.
- "Tôi rất tiếc, thưa bà, nhưng ngày mai tôi không còn làm việc ở đây nữa. Dẫu sao, tôi chắc rằng ông giám đốc...
- Không còn làm việc đây nữa? Tai họa chưa! Mà tại sao thế?
- Tôi phải vào bệnh viện.
- Athur, tôi hết sức buồn. Nhưng vì sao thế? Có điều gì quan trọng lắm sao?
- Thưa bà, để tổng kết về sức khỏe.
- Như thế là khôn đấy - ông Hogminster bảo. Tôi rất nhất trí với việc khám tổng kết.
- Ông ấy đã khám đến bốn hoặc sáu lần gì rồi đấy. Bà vợ nói thêm - Tôi cho rằng ông ấy ưa ý chuyện khám bệnh lắm, còn tôi, việc ấy luôn luôn làm tôi lo lắng. Tại sao người ta muốn khám anh vậy?
- Họ đã làm xét nghiệm rồi. Đến nay họ phải cho tôi biết kết quả.
- Ồ, tôi chắc mọi việc sẽ tốt đẹp thôi, anh Athur.
- Thưa bà, tôi mãn nguyện rằng quán này đã làm quý vị vừa ý.
- Rất thỏa mãn. Và chính chúng tôi phải mang ơn anh về điều này.
- Tôi rất tiếc phải nói lời từ giã với ông bà. Athur Burton nói một cách thành thực.
- Ồ, không, chưa đâu. Thứ năm này chúng tôi sẽ trở lại. Chúng tôi sẽ nghe theo lời khuyên của anh và ngày mai chúng tôi sẽ dùng bữa tại quán gần gian hàng bán đồ nam giới, nhưng chúng tôi sẽ đến ăn bữa cuối cũng tại quán bà Augustine nầy.
- Tại "quán ông Auguste" - ông Hogminster chữa lại thêm một lần nữa, nhưng bà vợ lại chẳng để ý.
- Chúng tôi đáp máy bay đi New York vào thứ sáu này nhưng chúng tôi sẽ gặp lại anh vào thứ năm để nghe anh báo tình hình sức khỏe của anh. Tôi chắc sẽ tốt đẹp. Tôi cầu phúc cho anh, nhưng quả tình, thâm tâm tôi không lấy làm lo lắng gì cả.
- Cứ mỗi sáu tháng tôi lại đi khám tổng quát - ông Hogminster nhấn mạnh - Kết quả luôn luôn hoàn hảo.
- Thưa bà, bà có cần món gì đặc biệt vào thứ năm này không? Tôi có thể đề nghị với ông giám đốc...
- Không, không, chúng tôi sẽ dùng những món mà anh đề nghị với chúng tôi. Thứ năm nhé. Chúc may mắn, anh Athur.
***
Athur hiểu rằng chẳng ích gì mà hy vọng. Anh đã biết rõ điều ấy ngay cả trước khi xét nghiệm, bằng vào cái giọng lấp lững của bác sĩ. Anh tự hỏi liệu một người ngồi ở băng ghế bị cáo có thể đoán trước được những lời tuyên án trước lúc hội đồng thẩm phán rút lui để nghị án? Vào thuở hãy còn án tử hình - liệu nỗi hổ thẹn có lan tràn từ cả nhóm đến tư tưởng phán quyết mà bản án sắp công bố chăng? Tuy vậy, Athur cảm thấy một nỗi khinh khoái vì cuối cùng anh đã thú nhận được một nửa phần cái tội nghiệt ngã của anh với bà Hogminster và bà đã không xem nhẹ. Như anh vẫn yên trí, và không kể những ba hoa lạc quan về thuốc men mà thiên hạ không quên vây bọc anh, nếu lời tuyên án là cái chết, thì bà Hogminster liệu có sẽ là người không quen gặp gỡ giữa phố mà anh có thể thổ lộ mọi điều không? Họ sẽ không gặp lại nhau nữa. Thứ sáu này, bà sẽ đi New York. Họ cũng không có bạn bè quen chung để qua đó bà có thể biết được nỗi oan nghiệt của anh. Anh cảm thấy dậy lên trong lòng một nỗi trìu mến đối với bà.
Đêm ấy, Athur Burton mơ thấy bà Hogminster. Không phải là một giấc mơ tính dục, cũng không phải là giấc mơ tình ái, chỉ thuần túy là một giấc mơ bình thường trong ấy bà đóng một vai trò không quan trọng. Nhưng lúc tỉnh dậy, Athur cảm thấy một cảm giác yên ổn mà anh không hề biết từ mấy tháng nay. Như thể anh đã nói với bà và bà đã chọn đúng lời để bày tỏ thiện cảm với anh. Đôi lời ấy đã giúp Athur có can đảm đối đầu với những kẻ thù của anh đang sắp sửa bóc trần cái sự thật xấu hổ ấy.
Anh bận tâm suốt ngày mặc dù mãi đến 5 giờ chiều mới là giờ hẹn. Lúc anh đến, anh còn phải nán chờ nửa giờ nữa. Bác sĩ giải phẫu mời anh ngồi với vẻ thông cảm long trọng đến nỗi Athur Burton có thể hình dung khá chính xác bản tổng kết sắp đưa ra.
- "Phải giải phẫu khẩn cấp". Vâng, đúng là ung thư, nhưng ông không nên hoảng sợ vì cái tên bệnh. Tôi biết có nhiều trường hợp cũng nghiêm trọng như ông... Chữa kịp thời, có thể có nhiều hy vọng.
- Bác sĩ muốn giải phẫu vào lúc nào?
- Tôi khuyên ông nên nhập viện vào sáng mai và tôi sẽ mổ cho ông vào ngày mốt?
- Liệu tôi có thể nhập viện vào buổi chiều được không?- Ông hiểu cho, tôi có việc bận với người ta vào sáng mai. Anh không nghĩ đến công việc nhưng đến bà Hogminster. Hẳn bà ấy đợi tin anh.
- Tôi dứt khoát muốn rằng ông phải nằm yên trên giường một ngày tròn. Rồi... vào lúc 6 giờ tôi sẽ đến gặp ông với chuyên viên gây mê.
Tối hôm ấy nằm trong giường, Athur Burton tự nhủ các bác sĩ giải phẫu hiển nhiên không phải là những nhà tâm lý chút nào. Họ quá chú ý đến thân xác đến nỗi quên mất vấn đề tinh thần và họ chẳng có chút ý thức về điều mà âm sắc của giọng nói có thể gợi lên. Họ bảo: "Có thể còn nhiều hy vọng" nhưng người bệnh lại nghe: "Có rất ít hy vọng", hoặc "Chẳng có chút hy vọng nào!".
Không phải là anh sợ chết. Chẳng có ai thoát khỏi số phận chung ấy, vả lại con người trên hành tinh không phải bị ngự trị bởi nỗi sợ hãi. Athur Burton chỉ mong chia sẻ sự hiểu biết và niềm bí ẩn của mình với một kẻ không quen, mà họ sẽ không quá xúc động theo kiểu của một người vợ hoặc một đứa con, (Athur không có vợ cũng chẳng có con) mà biết bày tỏ rằng chính họ cũng đắm chìm trong một nỗi niềm bí mật oan nghiệt ấy bằng một lời lẽ nhiệt tình. "Tôi bị lên án".
Bà Hogminster là nhân vật ấy. Anh đã đọc thấy điều đó trong mắt bà. Ngày mai lúc bà hỏi anh về kết quả cuộc xét nghiệm, anh sẽ tìm ra cách để làm cho bà hiểu sự thật - mà không cần đến ngôn ngữ, vì điều ấy sẽ không hội nhập bà Hogminster với nỗi oan khiên của anh. "Bác sĩ bảo anh thế nào Athur? - Bà ta sẽ hỏi như thế. Anh sẽ trả lời ra sao? Không, không cần đến lời nói. Chỉ một cái nhún vai nhẹ cũng đủ diễn tả hết mọi thứ. "Thế là tiêu rồi! Cám ơn đã có nghĩ về tôi". Và cái nhìn mà bà ném trả lại cho anh với cùng một cách kín đáo ấy nói lên rằng bà biết chia sẻ nỗi bí ẩn của anh.
Anh sẽ không dấn bước một mình vào tương lai.
- Không cần giữ bàn nữa, ông giám đốc thông báo - Cặp vợ chồng người Mỹ ấy đã đến đây hôm qua. Và tôi đã tìm cho họ một bàn khác và họ rõ ràng rất ưa ý.
- Họ có đến đây hôm qua à?
- Vâng, quả tình họ có vẻ rất thích nơi này.
- Tôi cho rằng họ đã đi xem đồ bán hạ giá cho nam giới.
- Thế nữa kia, tôi không biết phải nói sao với anh. Nhưng tôi nghĩ dường như anh nói chuyện quá nhiều với khách hàng thì phải. Thường thì họ muốn được yên ổn với nhau.
Ông giám đốc vội bước ra cửa quán để đón ông và bà Hogminster. Họ đi về phía một bàn nhỏ riêng biệt trong góc phòng. Lúc đi ngang qua, bà Hogminster gật đầu chào Athur và mỉm cười với anh. Ngồi ở chỗ mới ấy, họ không thể thấy đường phố được nhưng cũng rất có thể như ông giám đốc đã nhắc nhở anh, họ muốn được yên ổn với nhau - cũng có thể họ muốn được ông giám đốc đích thân phục vụ họ.
Chỉ sau khi họ dùng bữa và trả tiền xong thì bà Hogminster mới gọi anh trong lúc anh đang đi vào bếp:
- Athur, đến đây nói chuyện với chúng tôi một chút.
Anh vui vẻ đến gần, tâm hồn tự dưng khinh khoái.
- Hôm qua chúng tôi đã không gặp anh Athur, nhưng ông giám đốc thật là nhã nhặn. Chúng tôi không muốn làm phiền ông ấy.
- Tôi mong rằng quý vị đã dùng bữa được ngon miệng, thưa bà.
- Ồ, lúc nào ở quán bà Augustine này cũng ngon.
- Ồ, "quán ông Auguste" chứ! Ông Hogminster chữa lại.
- Còn chuyện mua hàng hạ giá, anh có lý hết sức lúc khuyên chúng tôi đến phố Jermyn Street. Chồng tôi đã mua hai bộ pijama và ba..., anh thử tính xem, ba áo sơ mi lận!
- Tất nhiên là chính bà ấy chọn đấy! Ông Hogminster nói.
Athur Burton xin lỗi và đi vào bếp. Vấn đề anh vẫn lo ngại đã không xảy ra, nhưng ý tưởng ấy không làm nỗi niềm bí ẩn nặng trĩu của anh nhẹ bớt chút nào. Anh sẽ không nói gì với ông chủ. Chỉ giản dị, ngày mai anh sẽ không đi làm nữa. Đến một lúc nào đấy, bệnh viện sẽ cho họ biết anh đã chết hoặc đang còn sống.
Anh hết sức hạn chế xuất hiện trong phòng ăn, mặc dù anh rất khổ tâm khi thấy một người phục vụ khác đang săn sóc ông bà Hogminster và trao đổi lời với họ.
Nửa giờ sau, ông giám đốc đến nói chuyện với anh trong bếp. Ông cầm trong tay một lá thư.
- Bà Hogminster yêu cầu tôi đưa cái này lại cho anh. Họ đã ra phi trường rồi.
Athur nhét lá thư vào túi. Anh cảm thấy lòng hết sức nhẹ nhõm. Bà Hogminster có lý thật. Họ không thể nào trao đổi với nhau về bí mật của anh ở bên trong quán ăn trước mắt thiên hạ. Giờ đây, anh sẽ mang theo chứng cớ lân cảm mà bà Hogminster đến tận bệnh viện và anh có thể đọc nó lại vào ngày hôm sau ngay trước khi chuyên viên gây mê đến. Anh không còn cảm thấy cô độc. Ra phố, anh hẳn sẽ cầm tay một phụ nữ không quen. Hẳn nhiên, bà ấy sẽ không bao giờ được nghe trả lời cho câu hỏi: "Bác sĩ đã bảo gì với anh?" nhưng bà ấy đã gởi lại cho anh một lá thư và điều này mới đáng kể.
Trước lúc tắt đèn ở đầu giường trong bệnh viện, anh mở phong thư. Anh hết sức kinh ngạc lúc thấy thoạt tiên rơi ra ba tờ giấy bạc một bảng.
Bà Hogminster đã viết như sau: Athur thân mến, tôi nghĩ rằng phải viết cho anh đôi lời để cám ơn anh trước khi chúng tôi lên máy bay. Chúng tôi hết sức thỏa lòng về những lúc đến quán bà Augustine và chắc chắn một ngày kia chúng tôi sẽ trở lại. Còn về hàng đại hạ giá, chúng tôi đã mua chác cực kỳ thú vị. Anh hết sức có lý về chuyện phố Jermyn Street.
Cuối thư, ký tên Dolly Hogminster.
ĐỖ HỮU THẠNH dịch
(Báo Le Monde Diplomatique tháng 4/1989)
(TCSH49/05&6-1992)
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).