ĐOÀN THƯƠNG HẢI
Truyện ngắn dự thi 1993
Minh họa: Phạm Đại
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI KHÁCH BUÔN.
Vào ngày mồng 4 Tết, khoảng 4 giờ chiều, tôi quyết định ghé Ngân hàng thành phố để rút số tiền mười triệu đồng chuẩn bị cho chuyến đi đầu năm. Khi ở Ngân hàng ra, tình cờ tôi gặp anh T, một người bạn cũ. Anh vừa mới từ Đà Lạt ra hôm qua. Anh còn tiết lộ cho tôi một cái tin bất ngờ: N.H vừa mới li dị với chồng và đang có mặt ở thành phố này. Nàng đã dắt con về Huế trước Tết và rất mong được gặp tôi. Cái tin bất ngờ đó đã khiến tôi xúc động lạ thường, đến nỗi tôi quên mất cái túi xách mười triệu đồng đang kè kè trên lưng tôi. Lẽ ra, N.H đã là vợ tôi nếu như nàng không quá tự ái và tôi không quá cộng trừ nhân chia. "Tình cũ không rủ cũng tới", tôi đã theo anh T. đi thăm N.H.
Thành phố lên đèn khá lâu, tôi và N.H mới chịu chia tay. Trên đường về, tôi không quên ghé lại Bưu điện thành phố để gửi một cái thư cho ông bác ở nước ngoài.
Lúc tới nơi, đã gần tám giờ tối, trời rét căm căm. Tòa nhà Bưu điện, đèn nê-ông sáng trưng, thứ ánh sáng trắng dịu dàng đến lạnh lùng. Trong bóng đêm nhờ nhờ ướt đẫm hơi mưa, tòa nhà như một khách sạn lớn, rực rỡ đèn và hoa.
Khi tôi đang loay hoay lục túi áo tìm phong thư thì một cô bé đến gần tôi lúc nào không rõ. Cô bé ngập ngừng rồi nhỏ nhẹ nói:
- Mời chú mua dùm cháu một hộp diêm, hộp diêm cuối cùng.
Cô bé ăn mặc đẹp, sang, kiểu cách nhưng lại đi bán diêm trong đêm giá rét cắt thịt cắt da và chỉ bán vẻn vẹn một hộp mà thôi. Tôi không muốn dây dưa với một đứa bé có vẻ "bất thường", lỡ có bề nào thì chỉ "đổ nợ".
Bưu điện lúc này vắng khách vãng lai, ngoại trừ một vài nhân viên trực ở các quầy, chỉ có hai người: Tôi và cô bé. Một cảm giác rờn rợn bò dọc theo sống lưng mình.
Tôi nói:
- Tôi không mua đâu, em đi chỗ khác mà bán.
Tôi nói và tôi nghe tiếng nói mình lạ hoắc, hình như đó là tiếng nói của một kẻ xa lạ nào khác. Để tránh rủi ro đầu năm, tôi vội vã "rút lui có trật tự". Nhưng khi tôi bước đi được mấy bước thì tiếng con bé lại đuổi sau lưng tôi:
- Chú ơi, chú quên bỏ thư rồi.
Tôi giật mình đứng lại. Cái thư vẫn nằm nguyên trong túi áo.
- À... Cám ơn em nhé.
Tôi bỏ thư vào thùng, óc tò mò lại xui khiến tôi buột miệng hỏi:
- Tại sao em biết tôi quên bỏ thư?
- Thường thường sau khi bỏ thư, trước khi đi hẳn, người ta thường ngoái đầu nhìn lại thùng thư một lần nữa. Đằng này chú bỏ đi thẳng.
"Người điên" có khi làm "người tỉnh" phải rùng mình vì sự thông minh nhanh trí của nó, nhất là giờ đây, trong đêm thanh vắng, ít người qua lại nơi này.
Làm theo lời cô bé, trước khi bỏ đi hẳn, tôi không quên ngoái đầu lại, nhưng không phải để nhìn cái thùng thư mà để tìm kiếm bóng dáng cô bé. Nhưng cô bé đã mất hút trong bóng đêm. Đến lúc này, tôi mới sực nhớ đến gói tiền mười triệu đồng. Gói tiền vẫn nặng trĩu trong túi xách mà tôi đang mang trên vai. Thật hú vía. Tôi tính nhẩm mười triệu đồng chia cho hai trăm đồng (một hộp diêm) vị chi bằng năm mươi ngàn hộp diêm. Nhưng chỉ với một hộp diêm, thậm chí chỉ một que diêm, con bé và "đồng bọn" của nó cũng có thể đốt năm mươi ngàn hộp diêm của tôi thành tro than. Tôi tự trách mình quá chủ quan, thiếu "đề cao cảnh giác". Có ai mang xách tiền mười triệu đồng mà lại đi lang thang bốn tiếng đồng hồ và không chịu về nhà, đặt nó vào két sắt như tôi?
* * *
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI SINH VIÊN
Tôi là sinh viên Đại học Bách khoa Sài Gòn. Trong dịp Tết tôi về Huế thăm, ăn Tết với gia đình. Mấy ngày Tết đối với tôi thật là quí, nhưng phải thú thật rằng tôi vẫn thấy tâm hồn mình thiếu vắng một cái gì đó khó bù đắp.
Ngày mồng Năm, tôi đạp xe lang thang suốt ngày trên những nẻo đường quen thuộc. Tôi muốn thăm lại những ngõ ngách của thành phố, nơi đã chứng kiến một thời thơ ấu của tôi, nơi vừa làm tôi thương lại vừa khiến tôi ghét với cái dáng vẻ hững hờ của nó.
Tối chúng tôi họp mặt đầu năm bạn bè thân hữu cùng thời và chia tay khi tất cả bắt đầu ngấm men say. Đêm rộng mênh mông, dày đặc bốn phía. Đêm rét tê người đã giúp tôi tỉnh táo trở lại để nhớ rằng tôi còn phải vào Thành nội để thăm một người bạn cuối cùng. Ngày mai, tôi đã phải tạm biệt cái thành phố "ngàn năm câm miệng hến - yêu không nồng, ghét cũng không cay" của tôi để trở lại Sài Gòn.
Khi đi ngang trước Đại Nội, tôi đứng sững sờ hồi lâu trước cửa Ngọ Môn, nơi đã chứng kiến buổi làm quen của tôi với A.T. Hồi ấy A.T là một trong những "ngôi sao" của thành phố. Còn tôi chỉ là một học sinh nghèo. Ở lứa tuổi chúng tôi, có người nói ranh giới giữa tình bạn và tình yêu khó phân biệt. Nhưng tôi đã thiếu mạnh dạn. Đối với một người con gái Huế mà thiếu mạnh dạn có nghĩa là vô vọng. Giờ đây, kỷ niệm bỗng thức dậy trong tôi như những đợt sóng nhẹ vỗ vào ký ức chập chờn.
Trong khi tôi đang mơ màng thả hồn vào "cõi xưa", sống lại "một góc đời riêng" thì một cô bé bỗng hiện ra như trong truyện cổ tích. Cô bé chìa ra trước mặt tôi một vật nhỏ và nói:
- Xin chú mua dùm cháu hộp diêm để lấy hên đầu năm, hộp diêm cuối cùng đó chú.
Trông cô bé không có dáng vẻ của người đi bán dạo. Lại còn chưng diện áo quần, giày dép nữa chứ. Tôi thấy ngờ ngợ.
- Em đi đi, đừng làm phiền tôi nữa.
- Không, cháu phải bán cho kỳ được hộp diêm này thì cháu mới về.
Cô bé xuống giọng năn nỉ:
- Chú mua dùm cháu đi. Cháu và bạn cháu sẽ không quên ơn chú.
Cái gì? "Không quên ơn chú", lại còn "bạn cháu" nữa cơ chứ! Không có lẽ tôi lại rơi vào trò chơi kỳ quái của bọn trẻ con. Mặc cho cô bé kỳ cục nỉ non, tôi ca bài "tẩu vi thượng sách", nếu không có nguy cơ "rách việc".
Cô bé đã vô tình phá tan giấc mơ trở về thế giới hoài niệm của tôi, nhưng tôi không giận cô bé. Dù sao tôi cũng là một con người hạnh phúc vì tôi còn có một nơi chốn để tìm về, một hình bóng để tưởng nhớ, một kỷ niệm để không bao giờ quên.
* * *
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI BÁN SÁCH DẠO
Cuộc sống của tôi gắn liền với những chuyến tàu xuôi ngược Bắc - Nam. Nhưng tôi không phải là nhân viên đường sắt. Tôi chỉ là người bán sách dạo. Mỗi ngày, với một bì sách khoác trên vai, một chồng sách báo trên tay, tôi liên tục có mặt trên các toa tàu, mang thực phẩm tinh thần đến cho mọi người. Nhờ một ít vốn liếng học thức thu lượm được qua bốn năm ở trường Đại học văn khoa, lại biết chịu khó đọc trước các cuốn tiểu thuyết mà tôi mang trên lưng, ôm trên tay, nên tôi có thể giới thiệu sách một cách duyên dáng, hấp dẫn, có khả năng thu hút cảm tình và sự chú ý của khách đi tàu. Nhờ đó tôi mới nuôi bốn đứa con đang tuổi ăn học. Nhiều bà, nhiều cô buôn chuyến đường dài thường gọi tôi là "Thầy". Các bà còn nói với nhau: "Ông thầy giỏi thật, gà trống mà nuôi con ăn học đàng hoàng, giỏi thiệt". Các bà, các cô thường mua sách dùm tôi, nhưng tôi biết họ không đọc mà mua về cho con cháu hoặc lấy giấy gói hàng. Tuy vậy khi bán sách, tôi vẫn cố chọn sách hay, hợp thị hiếu của người đọc. Nói đến chuyện bán sách, tôi đâm ra "thương hại" các nhà-văn-chân-chính-thứ-thiệt-một-trăm-phần-trăm, mặc dù họ sẵn sàng phỉ nhổ, huỵch toẹt vào cái "tâm" của tôi. Các anh các chị làm ăn nghiêm túc nhưng "Văn chương hạ giới rẻ như bèo - Kiếm được đồng lãi thực là khó".
Ngày mồng sáu Tết tôi trở lại với công việc mưu sinh. Tôi ra đi từ sáng sớm và trở về trong đêm tối. Con tàu Thống Nhất dừng bánh ở ga Huế muộn hơn thường lệ. Để tiết kiệm một cuốc xe thồ ba ngàn đồng từ sân ga về đến Thành nội, tôi quyết định cuốc bộ. Ngang qua nhà Văn hóa Thiếu nhi, tôi ghé quán cà-phê "Cây Si" uống một li chanh nóng. Quán vắng người hình như chỉ có một mình tôi. Không, còn thêm một người nữa - đúng hơn là một con bé. Tôi chưa kịp cầm li nước thì con bé đã sốt sắng mời tôi mua diêm. Dĩ nhiên là tôi có ngạc nhiên về cô bé. Đêm tối mù, trời lạnh. Bên ngoài đường cái vắng người. Bên trong quán, đèn sáng lờ mờ. Cô bé đi bán diêm vào giờ này, chắc là gia đình nó túng thiếu lắm. Tôi không cần diêm vì tôi đã có hộp quẹt gaz, nhưng tôi cũng đồng ý mua hộp diêm của cô bé. Cô bé chìa ra bao diêm, trong khi tôi lục túi tìm tờ giấy bạc. Tôi vốn dễ mủi lòng trước cái khổ của người khác, nhất là người khác ấy lại là một em bé gái mà tôi không nhìn rõ mặt. Trong ánh đèn vàng vọt của quán cà phê, tôi thấy bàn tay em run run, có lẽ vì trời quá lạnh. Bỗng nhiên tôi nghe cô bé kêu lên một tiếng thảm não. Cô đã vô ý đánh rơi hộp diêm vào li nước chanh của tôi. Sự việc đó cũng bình thường thôi, nhưng phản ứng của cô bé thật lạ lùng. Cô bé lại còn bưng mặt, hình như khóc. Tất cả những gì tôi thấy và nghe đã khiến tôi xúc động thật sự.
Tôi an ủi:
- Thôi cháu đừng tiếc nữa, tiếc gì một hộp diêm. Đây chú đền cho cháu hai ngàn đồng đây.
Tôi đưa tờ bạc mới tinh ra trước mặt nó. Nhưng tôi bỗng ngạc nhiên vì nó không nhận, nó lí nhí cảm ơn tôi và lủi thủi bỏ đi.
Trên đường về, tôi nghĩ ngợi mãi mà vẫn không hiểu tại sao chỉ vì một hộp diêm ướt mà con bé lại đau khổ như vậy. Tại sao nó lại không chịu nhận lòng tốt của tôi?
* * *
LỜI KỂ CỦA EM BÉ
Năm nay em mười hai tuổi, học lớp sáu. Thầy giáo dạy văn của em là thầy Bích. Cùng với sách văn, thầy Bích đã đưa em và các bạn vào thế giới kỳ diệu của những câu chuyện cổ. Những câu chuyện cổ tích đã cám dỗ em mãnh liệt.
Một lần thầy đã kể cho chúng em nghe chuyện “Cô bé bán diêm” của nhà văn Andersen, người Đan Mạch. Câu chuyện đã cuốn hút chúng em một cách kì lạ. Chúng em như tưởng tượng thấy được hình ảnh cô bé bán diêm nghèo khổ gầy gò vì đói, co ro vì lạnh. Khi thầy kể đến chỗ cô bé gục chết và sự vô tâm của người đời thì em và các bạn không nén được nước mắt. Chúng em đâm ra oán trách ông Andersen, oán trách ông sao lại để cho cô bé phải chết khi tuổi còn thơ. Tại sao không ai cứu cô bé? Tại sao không có một người hảo tâm nào mua diêm cho cô, cho cô sưởi ấm, cho cô ăn đưa cô về nhà? Tại sao mọi người phát hiện cái chết của cô mà vẫn thản nhiên? Một bạn em đã hỏi thầy chuyện cô bé bán diêm có thật không hay do người lớn bịa ra. Trước câu hỏi ngây ngô của bạn em, thầy cũng phải cười "ồ, cũng có thể có thật". Thầy lại cười và nói thêm: "Bao giờ loài người thoát khỏi cảnh nghèo đói thì những cô bé bán diêm mới có thể được đi học như các em". Thật ra em chưa hiểu hết lời thầy nhưng em tin rằng chuyện cô bé bán diêm là có thật.
Sau buổi học, em đã về nhà với một tâm trạng đầy thương cảm. Hai ba ngày sau, cái chết của cô bé bán diêm trong đêm giao thừa trời rét dữ dội của nước Đan Mạch vẫn còn ám ảnh tâm trí em. Cho đến một hôm em nằm mơ. Trong mơ, em thấy một cô gái xiêm y lộng lẫy, đầu đội vương miện ngũ sắc tiến đền gần em với nụ cười tươi tắn trên gương mặt hồng hào rạng rỡ.
Cô-gái-quí-tộc gật đầu chào em ra chiều thân mật:
- Chào em gái, em có nhận ra chị không?
Cô gái có vẻ quen quen, hình như em đã gặp cô một lần nào rồi. Em cố lục lọi trí nhớ, nhưng trí nhớ của em chẳng mách bảo cho em điều gì.
- Chị hổng phải là người xa lạ với em đâu, dù chị là người nước ngoài. Chẳng lẽ em hổng nhớ rằng em vẫn thường hay nghĩ về chị đó sao? Chị là... Em mừng rỡ kêu lên:
- Chị ơi, em nhớ ra rồi. Chị là cô bé bán diêm. Chị thay đổi nhiều quá, làm sao em nhìn ra được?
Phải rồi trước mắt em là "cô bé bán diêm" bằng da bằng thịt, em chạy vội lại cô gái, nắm hai tay cô. Nhưng em lại vội rút hai tay lui vì em sực nhớ "cô bé bán diêm" đã chết từ lâu lắm rồi:
- Ủa! Làm sao mà chị được sống lại vậy?
Cô gái cất tiếng cười khanh khách:
- Sao em ngây thơ quá vậy. Em hổng nghe người ta thường nói nhà văn là thượng đế đó sao? Ông già Andersen đã thực hiện lời cầu xin của trẻ em trên toàn thế giới nên ổng đã cho chị được sống lại. Đây, em hãy nhìn kỹ gương mặt của chị một lần một lần nữa đi. Có đúng chị là cô bé bán diêm không nào?
Em kêu lên mừng rỡ:
- Đúng rồi chị ơi, chị chính là cô bé bán diêm đã làm cho em phải ứa nước mắt khi thầy em kể chuyện về chị.
- Không những ông Andersen cho chị sống lại mà ông còn cho chị đi học, cho chị nhiều quần áo đẹp nữa, cưng à.
Cô gái quay một vòng, xiêm áo cô, vương miện của cô lấp lánh muôn màu trong đêm. Cô còn trang sức bằng những vòng ngọc đủ màu, hoa tai bằng vàng, giày nhung nạm bạc.
Em vẫn không nén được ngạc nhiên:
- Chị ơi, em chúc mừng cho chị, nhưng em sợ người ta không còn nhận ra chị là cô bé bán diêm nữa, chị đã trở thành công chúa mất rồi.
- Thế thì cưng cứ gọi chị là công chúa bán diêm cũng được. Nhưng tại sao mọi người lại hổng muốn cho chị được sung sướng?
- Không, không phải như thế đâu chị ơi! Nhưng chị phải nhớ rằng sở dĩ người ta mãi mãi còn nhớ đến chị vì chị là cô bé bán diêm và ông Andersen bất tử vì ông là cha đẻ của chị.
- Không, cưng đừng hiểu lầm chị. Trước sau chị vẫn là cô bé bán diêm, cô bé nghèo đói đã từng mơ ước cái lò sưởi, con ngỗng quay, cây thông Nô-en, mơ ước được theo bà bay vụt lên trời, nơi chẳng còn đói rét, đau buồn, trong cái đêm giao thừa năm ấy.
Công-chúa-bán-diêm ngập ngừng một lát như để nén cảm xúc, cô nói tiếp:
- Chị biết tuổi thơ trên khắp hành tinh này còn nhiều vất vả. Ông Andersen cũng biết thế, nên ông đang soạn thảo bức Thông điệp gởi Liên Hiệp Quốc đó cưng. Nhưng thôi chị báo cho cưng một tin mừng: lần này chị cất công qua Việt Nam là để giúp cưng thực hiện một ĐIỀU ƯỚC.
Em mừng rỡ kêu lên:
- Thật hả chị? Thế chị giúp cho ba em sống lại được không?
- Không thể được. Ông Andersen nói chỉ có vĩ nhân mới bất tử.
- Chị giúp em học giỏi có được không?
- Không thể được. Muốn học giỏi em phải tự lực, đừng dựa vào bất cứ ai ngoài bản thân em. Em hãy ghi nhớ lời ông Buýp - phông: “Thiên tài chỉ là một sự kiên nhẫn lâu dài”.
- Thưa chị em biết, ở nước em cũng có câu tương tự: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Em xin chị một ĐIỀU ƯỚC CUỐI CÙNG: Nhỏ bạn em bị tai nạn vì pháo. Đôi mắt nhỏ đang mất dần ánh sáng cuộc đời.
- Được, nhưng với một điều kiện là em phải bán diêm như chị trước kia. Em phải chọn một đêm trời rét để đi bán diêm và em phải bán được một bao diêm cho một người khách độc nhất còn sót lại tại một địa điểm thường đông người lui tới như chợ búa, nhà hàng chẳng hạn.
- Chị ơi, điều kiện của chị khó quá. Sao em làm theo cho được?
- Em ơi, không có thắng lợi nào nằm trong tầm tay của chúng ta cả. Chị cầu chúc em kiên trì thực hiện điều ước tốt đẹp nhất của chúng ta.
Nói xong, công-chúa-bán-diêm người Đan Mạch biến mất. Em giật mình thức giấc, cố nhớ lại giấc mơ và em tin lời công chúa dặn là có thật.
Em đã thực hiện lời dặn của công-chúa-bán-diêm. Đêm mồng bốn Tết. Một đêm rét nhất của Huế. Một đêm vắng khách vãng lai. Em đã may mắn gặp được ông-khách-độc-nhất Bưu điện. Rủi thay, chú ấy không chịu mua.
Đêm sau, cũng gặp một người-khách-độc-nhất trước cửa Ngọ Môn. Chú ấy đứng sững sờ, đôi mắt chú ấy cứ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mắt. Em đến gần chú, mời chú mua diêm. Chú ấy bảo em đừng làm phiền chú, nhưng em vẫn nài nỉ vì em nhớ lời công chúa bán diêm dặn "phải kiên trì". Nhưng chú ấy đã phóng xe đi với một thái độ khó hiểu.
Sau hai lần thất bại, em tự nhủ mình phải kiên trì tiếp tục công việc một lần thứ ba nữa. Đêm mồng sáu Tết em ra khỏi nhà sớm hơn thường lệ. Em phải nói dối mẹ em rằng em đi thăm bạn em đang nằm viện, mẹ mới cho đi. Em còn hứa với mẹ là sẽ về sớm cho mẹ yên lòng. Em tự nhủ đêm nay là đêm cuối cùng. Đến ngày mai chắc em không còn được phép thực hiện điều ước cuối cùng nữa. Trong đêm này em đã may mắn gặp được ông-khách-độc-nhất ở quán "Cây Si". Phút trọng đại mà em chờ đợi mấy ngày nay sắp đến. Em sắp bán được hộp diêm duy nhất cho người khách độc nhất. Em nghe như có muôn tiếng hò reo, muôn ngọn lửa nồng phát ra từ hộp diêm mà em đang cầm trong tay. Hình ảnh nhỏ bạn em hiện ra. Kìa! Đôi mắt nhỏ đã sáng ngời trở lại! Quá xúc động đâm ra luống cuống, em run tay và hộp diêm... Trời ơi, em đã làm hỏng điều ước cuối cùng rồi. Nước mắt em dàn dụa.
* * *
LỜI CỦA NGƯỜI CHÉP TRUYỆN
Những ngày sau đó, trời vẫn còn rét đậm, nhưng tôi không còn thấy cô bé đi bán diêm nữa. Chắc cô bé đã nhận ra mộng, thực không thể trộn lẫn vào nhau. Nhưng tôi tin ước mơ cháy bỏng của em vẫn còn đó. Tôi chỉ sợ một điều là một ngày gần đây, trời sẽ ấm trở lại, lúc đó, điều ước cuối cùng của cô bé sẽ tan vào hư không.
Tôi khép lại câu chuyện với niềm tin chắc chắn rằng: Nhỏ bạn của cô-bé-mê-chuyện-cổ-tích rồi sẽ được sáng mắt trở lại vì một lẽ thường tình nhưng khó giải thích:
Lòng nhân hậu của con người có khả năng làm nên phép màu.
Thành Nội tháng 2-93
Đ.T.H.
(TCSH55/05&6-1993)
NGUYỄN TRƯỜNG Nơi hầm tối là nơi sáng nhất (Thơ Dương Hương Ly)
TRẦN THUỲ MAINăm nay mùa đông lạnh hơn hẳn mọi năm. Gió cao nguyên cứ tràn qua, tràn qua từng đợt, những bông quỳ chấp chới vàng như sóng. Quỳnh bảo tôi: Gió ở đây một đi không trở lại, khác ở Huế. Gió từ sông Hương thổi lên là gió rất đa mang, thổi tà áo bay dùng dằng, như trong câu hát ngày xưa "Gió bay từ muôn phía...".
HẢI THITôi lớn lên ở một ngôi nhà nhỏ ven sông. Con sông nhỏ chảy qua một vùng quê hẻo lánh. Nhà tôi và nhà Khan đối diện nhau trên dòng trôi quê mùa ấy, chỉ có điều nhà tôi thì quay mặt ra sông, còn nhà Khan thì quay lưng ra sông, chính vì thế mà thuở nhỏ, mỗi lần tắm sông cười đùa ầm ỉ, tôi hay bị ba tôi rầy la nhiều hơn, vì ba tôi chỉ cần ngồi trên nhà đưa mắt là thấy ngay tôi đang trèo lên những bè lục bình để làm công chúa, còn ba Khan thì chỉ trông thấy Khan ném bùn đất vào cô công chúa kỳ khôi mỗi khi ông có việc phải ra đằng sau bếp.
NGUYỄN VIỆT HÀThư viện, nơi mà tôi sẽ tả kỹ, là một nơi tôi đã nhớ và bị nhớ rất lâu. Không phải ở đó tôi đã lần đầu yêu và lần đầu hôn. Tôi nhớ nó vì có một truyện kỳ dị, cái truyện đó rồi sẽ đẩy tôi suýt nữa trở thành một thứ bải hoải rẻ rách.
XUÂN ĐÀITôi làm đơn xin thôi việc, dù biết làm như vậy là phá vỡ hợp đồng đã ký kết với công ty. Tôi phải bồi hoàn. Là nhân viên kiểm toán, tôi không thể tiếp tục làm theo sự chỉ đạo của sếp, cộng tác với doanh nghiệp, đồng lõa với doanh nghiệp, sáng tác ra những con số ma để đối phó với thanh tra. Có tờ báo đã giễu cợt việc làm này là quân trộm cắp cộng tác với quân siêu trộm cắp, có lẽ nhà nước nên lập thêm công ty kiểm toán của kiểm toán.
NGUYỄN CẨM HƯƠNGBước ra khỏi lớp học ngoại ngữ anh bỗng thấy đầu óc quay cuồng như muốn ngã. Dắt được chiếc xe đạp địa hình ra khỏi trung tâm, anh cố gắng đạp một cách khó nhọc trên đường phố.
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNNgười ta thường nói xem mặt đặt tên, nhưng điều này lại không đúng với thượng tá Kha. Nhìn bề ngoài, ai cũng nghĩ ông là người khô khan, thật ra ông lại là người rất đa cảm.
NGUYỄN THẾ TƯỜNGChấp me?Che muống! / Chấp me? Cuống sắc! / Chấp me? Sắc cạnh? / Chấp me? Hạnh bầu! / Chấp me? Hầu nhảy/Ăn cơm ai? Ăn cơm cha!Uống nước ai? Uống nước mạ!Hú ...Con mau về kẻo quạ tha đi!
HUỲNH THẠCH THẢO- Lành, về bảo bố mày ăn nhậu vừa vừa thôi, đừng như mấy ông mới ngấp nghé vào cấp xã đã phởn, bia ôm gái giếc có ngày...Tôi vừa vào đến cổng đã nghe tiếng mẹ sang sảng với con Lành, đứa con cậu út ở quê. Chưa hết, bà còn thêm hồi nữa nhưng nhỏ hơn, có lẽ nghe tiếng cửa mở bên ngoài.
NGUYỄN TRƯỜNGChiều xuống. Lúc mặt trời sắp lặn sau dãy núi phía tây cũng là lúc người ta thấy ông già xóm Chùa thường mon men tới thả câu ở cái bến sông này.
MÃN ĐƯỜNG HỒNGMùa Xuân lững thững về. Anh cũng lững thững đi ra phố chợ. Hai bàn tay trơ trọi của anh đút sâu vào hai túi quần rỗng trống buồn tênh. Anh mỉm cười thong dong bước đi, hòa vào dòng người nhôn nhao tất tả.
HỒNG NHUNói chính xác là chị dâu. Chính xác hơn, chị dâu thứ của vợ tôi. Thông thường những trường hợp như thế này, trong nhà em út chẳng ai gọi đầy đủ là chị dâu cả, mà chỉ là chị thôi. Ấy là chị Kim.
TRẦN DUY PHIÊN1. Chuông điện thoại reo phải lúc tôi đang tiếp ông tổ trưởng dân phố. Biết tôi ở nhà một mình, ông nói gọn mấy câu rồi từ biệt. Ba chân bốn cẳng chạy như nước rút, tôi mới với được tới máy.
LÊ ĐỨC QUANGMột buổi sáng sớm mùa xuân, bầu trời trong xanh thăm thẳm. Anh nắng vàng vừa rải đều khắp nơi. Gió thổi nhẹ, mơn man vào da thịt con người ta, thật mát mẻ dễ chịu làm sao. Dọc đường phố, cuối năm rồi, dòng người trở nên đông đúc và nhộn nhịp, kẻ thì lo mua sắm áo quần mới, người thì lo bánh mứt, kẻ thì mua những chậu hoa, cây cảnh, trang trí nhà cửa của mình sao cho thật đẹp. Mọi người ai cũng hối hả, vui mừng đón năm mới. Riêng lão xích lô, vẫn công việc bình thường như mọi ngày: sáng ăn qua quýt ổ bánh mì xong rồi đạp xích lô đến ngã ba gần sân ga, chờ những chuyến tàu về, mặt cố gắng hớn hở, tươi cười, đón mời khách.
NGUYỄN VĂN NINHTôi được cơ quan tố tụng chỉ định làm luật sư cho một bị can.Tôi xin kể ra đây, hơi dài dòng một chút, không phải bị cáo mà là cha tôi. Trong cuộc đời làm luật sư, cha tôi luôn thích nhất câu: Thưa quí tòa! Thân chủ tôi hoàn toàn vô tội! Cha tôi muốn tôi sau này mỗi khi đứng trước toà đều nói câu như vậy.
QUẾ HƯƠNG 1. Chị đi qua, tẻ nhạt và cũ kỹ như cái áo đề mốt thơm mùi long não lấy từ hòm gỗ ủ hương kỷ niệm. Khu cư dân tôi ở thì mới toanh, chưa tròn mười. Cơ ngơi phó giám đốc xí nghiệp gỗ sực nức mùi rừng.
PHAN VĂN LỢILTS: Cuộc làm người, khó thay! Dân tộc nào cũng sáng tạo cho mình một ĐỊA NGỤC để răn dạy con người không nguôi hướng đến cái CHÂN - THIỆN - MỸ.Nhuốm màu sắc của Liêu trai chí dị và Việt điện u linh..., câu chuyện là một phần của cuộc đời đầy ám ảnh. Vừa cuốn hút thương cảm với cái nhìn nghiêm khắc lột trần bản chất đời sống, vừa hoang mang đặt ra câu hỏi về ý nghĩa sống đích thực của con người.
(tiếp theo và hết)Chuyến du ngoạn địa ngục đã để lại trong tâm trí ông Thai một ấn tượng hãi hùng. Thật khủng khiếp nếu phải chịu cực hình rồi bị đày xuống đó muôn kiếp. Phải tìm cách tự cứu mình chứ chả lẽ chịu bó tay?
HOÀNG NHẬT TUYÊNI. Chuyện được bắt đầu bằng một quả trứng, thoạt nghe cứ tưởng chuyện cổ tích nhưng nghe rồi mới rõ, ấy là chuyện thời nay, và đúng thế, nếu tường thuật theo lối cổ điển, theo tình tự thời gian thì chuyện không thể bắt đầu bằng chỗ nào khác thích hợp hơn là từ một quả trứng- một quả trứng gà.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHọ là đôi bạn thân kể từ thời còn học ở đại học Sorbonne, sau đó, cùng chọn chuyên ngành khảo cổ học. Jabindu, người Népal; Robinson, người Mỹ. Thời trẻ, cả hai đều say mê công việc khô khan và vất vả của mình. Dấu chân của đôi bạn đã dẫm khắp những di tích lịch sử ở hai bờ sông Nile, sông Hằng, Trung Á, Con Đường Tơ Lụa và cả Nam Mỹ...