ĐOÀN THƯƠNG HẢI
Truyện ngắn dự thi 1993
Minh họa: Phạm Đại
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI KHÁCH BUÔN.
Vào ngày mồng 4 Tết, khoảng 4 giờ chiều, tôi quyết định ghé Ngân hàng thành phố để rút số tiền mười triệu đồng chuẩn bị cho chuyến đi đầu năm. Khi ở Ngân hàng ra, tình cờ tôi gặp anh T, một người bạn cũ. Anh vừa mới từ Đà Lạt ra hôm qua. Anh còn tiết lộ cho tôi một cái tin bất ngờ: N.H vừa mới li dị với chồng và đang có mặt ở thành phố này. Nàng đã dắt con về Huế trước Tết và rất mong được gặp tôi. Cái tin bất ngờ đó đã khiến tôi xúc động lạ thường, đến nỗi tôi quên mất cái túi xách mười triệu đồng đang kè kè trên lưng tôi. Lẽ ra, N.H đã là vợ tôi nếu như nàng không quá tự ái và tôi không quá cộng trừ nhân chia. "Tình cũ không rủ cũng tới", tôi đã theo anh T. đi thăm N.H.
Thành phố lên đèn khá lâu, tôi và N.H mới chịu chia tay. Trên đường về, tôi không quên ghé lại Bưu điện thành phố để gửi một cái thư cho ông bác ở nước ngoài.
Lúc tới nơi, đã gần tám giờ tối, trời rét căm căm. Tòa nhà Bưu điện, đèn nê-ông sáng trưng, thứ ánh sáng trắng dịu dàng đến lạnh lùng. Trong bóng đêm nhờ nhờ ướt đẫm hơi mưa, tòa nhà như một khách sạn lớn, rực rỡ đèn và hoa.
Khi tôi đang loay hoay lục túi áo tìm phong thư thì một cô bé đến gần tôi lúc nào không rõ. Cô bé ngập ngừng rồi nhỏ nhẹ nói:
- Mời chú mua dùm cháu một hộp diêm, hộp diêm cuối cùng.
Cô bé ăn mặc đẹp, sang, kiểu cách nhưng lại đi bán diêm trong đêm giá rét cắt thịt cắt da và chỉ bán vẻn vẹn một hộp mà thôi. Tôi không muốn dây dưa với một đứa bé có vẻ "bất thường", lỡ có bề nào thì chỉ "đổ nợ".
Bưu điện lúc này vắng khách vãng lai, ngoại trừ một vài nhân viên trực ở các quầy, chỉ có hai người: Tôi và cô bé. Một cảm giác rờn rợn bò dọc theo sống lưng mình.
Tôi nói:
- Tôi không mua đâu, em đi chỗ khác mà bán.
Tôi nói và tôi nghe tiếng nói mình lạ hoắc, hình như đó là tiếng nói của một kẻ xa lạ nào khác. Để tránh rủi ro đầu năm, tôi vội vã "rút lui có trật tự". Nhưng khi tôi bước đi được mấy bước thì tiếng con bé lại đuổi sau lưng tôi:
- Chú ơi, chú quên bỏ thư rồi.
Tôi giật mình đứng lại. Cái thư vẫn nằm nguyên trong túi áo.
- À... Cám ơn em nhé.
Tôi bỏ thư vào thùng, óc tò mò lại xui khiến tôi buột miệng hỏi:
- Tại sao em biết tôi quên bỏ thư?
- Thường thường sau khi bỏ thư, trước khi đi hẳn, người ta thường ngoái đầu nhìn lại thùng thư một lần nữa. Đằng này chú bỏ đi thẳng.
"Người điên" có khi làm "người tỉnh" phải rùng mình vì sự thông minh nhanh trí của nó, nhất là giờ đây, trong đêm thanh vắng, ít người qua lại nơi này.
Làm theo lời cô bé, trước khi bỏ đi hẳn, tôi không quên ngoái đầu lại, nhưng không phải để nhìn cái thùng thư mà để tìm kiếm bóng dáng cô bé. Nhưng cô bé đã mất hút trong bóng đêm. Đến lúc này, tôi mới sực nhớ đến gói tiền mười triệu đồng. Gói tiền vẫn nặng trĩu trong túi xách mà tôi đang mang trên vai. Thật hú vía. Tôi tính nhẩm mười triệu đồng chia cho hai trăm đồng (một hộp diêm) vị chi bằng năm mươi ngàn hộp diêm. Nhưng chỉ với một hộp diêm, thậm chí chỉ một que diêm, con bé và "đồng bọn" của nó cũng có thể đốt năm mươi ngàn hộp diêm của tôi thành tro than. Tôi tự trách mình quá chủ quan, thiếu "đề cao cảnh giác". Có ai mang xách tiền mười triệu đồng mà lại đi lang thang bốn tiếng đồng hồ và không chịu về nhà, đặt nó vào két sắt như tôi?
* * *
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI SINH VIÊN
Tôi là sinh viên Đại học Bách khoa Sài Gòn. Trong dịp Tết tôi về Huế thăm, ăn Tết với gia đình. Mấy ngày Tết đối với tôi thật là quí, nhưng phải thú thật rằng tôi vẫn thấy tâm hồn mình thiếu vắng một cái gì đó khó bù đắp.
Ngày mồng Năm, tôi đạp xe lang thang suốt ngày trên những nẻo đường quen thuộc. Tôi muốn thăm lại những ngõ ngách của thành phố, nơi đã chứng kiến một thời thơ ấu của tôi, nơi vừa làm tôi thương lại vừa khiến tôi ghét với cái dáng vẻ hững hờ của nó.
Tối chúng tôi họp mặt đầu năm bạn bè thân hữu cùng thời và chia tay khi tất cả bắt đầu ngấm men say. Đêm rộng mênh mông, dày đặc bốn phía. Đêm rét tê người đã giúp tôi tỉnh táo trở lại để nhớ rằng tôi còn phải vào Thành nội để thăm một người bạn cuối cùng. Ngày mai, tôi đã phải tạm biệt cái thành phố "ngàn năm câm miệng hến - yêu không nồng, ghét cũng không cay" của tôi để trở lại Sài Gòn.
Khi đi ngang trước Đại Nội, tôi đứng sững sờ hồi lâu trước cửa Ngọ Môn, nơi đã chứng kiến buổi làm quen của tôi với A.T. Hồi ấy A.T là một trong những "ngôi sao" của thành phố. Còn tôi chỉ là một học sinh nghèo. Ở lứa tuổi chúng tôi, có người nói ranh giới giữa tình bạn và tình yêu khó phân biệt. Nhưng tôi đã thiếu mạnh dạn. Đối với một người con gái Huế mà thiếu mạnh dạn có nghĩa là vô vọng. Giờ đây, kỷ niệm bỗng thức dậy trong tôi như những đợt sóng nhẹ vỗ vào ký ức chập chờn.
Trong khi tôi đang mơ màng thả hồn vào "cõi xưa", sống lại "một góc đời riêng" thì một cô bé bỗng hiện ra như trong truyện cổ tích. Cô bé chìa ra trước mặt tôi một vật nhỏ và nói:
- Xin chú mua dùm cháu hộp diêm để lấy hên đầu năm, hộp diêm cuối cùng đó chú.
Trông cô bé không có dáng vẻ của người đi bán dạo. Lại còn chưng diện áo quần, giày dép nữa chứ. Tôi thấy ngờ ngợ.
- Em đi đi, đừng làm phiền tôi nữa.
- Không, cháu phải bán cho kỳ được hộp diêm này thì cháu mới về.
Cô bé xuống giọng năn nỉ:
- Chú mua dùm cháu đi. Cháu và bạn cháu sẽ không quên ơn chú.
Cái gì? "Không quên ơn chú", lại còn "bạn cháu" nữa cơ chứ! Không có lẽ tôi lại rơi vào trò chơi kỳ quái của bọn trẻ con. Mặc cho cô bé kỳ cục nỉ non, tôi ca bài "tẩu vi thượng sách", nếu không có nguy cơ "rách việc".
Cô bé đã vô tình phá tan giấc mơ trở về thế giới hoài niệm của tôi, nhưng tôi không giận cô bé. Dù sao tôi cũng là một con người hạnh phúc vì tôi còn có một nơi chốn để tìm về, một hình bóng để tưởng nhớ, một kỷ niệm để không bao giờ quên.
* * *
LỜI KỂ CỦA NGƯỜI BÁN SÁCH DẠO
Cuộc sống của tôi gắn liền với những chuyến tàu xuôi ngược Bắc - Nam. Nhưng tôi không phải là nhân viên đường sắt. Tôi chỉ là người bán sách dạo. Mỗi ngày, với một bì sách khoác trên vai, một chồng sách báo trên tay, tôi liên tục có mặt trên các toa tàu, mang thực phẩm tinh thần đến cho mọi người. Nhờ một ít vốn liếng học thức thu lượm được qua bốn năm ở trường Đại học văn khoa, lại biết chịu khó đọc trước các cuốn tiểu thuyết mà tôi mang trên lưng, ôm trên tay, nên tôi có thể giới thiệu sách một cách duyên dáng, hấp dẫn, có khả năng thu hút cảm tình và sự chú ý của khách đi tàu. Nhờ đó tôi mới nuôi bốn đứa con đang tuổi ăn học. Nhiều bà, nhiều cô buôn chuyến đường dài thường gọi tôi là "Thầy". Các bà còn nói với nhau: "Ông thầy giỏi thật, gà trống mà nuôi con ăn học đàng hoàng, giỏi thiệt". Các bà, các cô thường mua sách dùm tôi, nhưng tôi biết họ không đọc mà mua về cho con cháu hoặc lấy giấy gói hàng. Tuy vậy khi bán sách, tôi vẫn cố chọn sách hay, hợp thị hiếu của người đọc. Nói đến chuyện bán sách, tôi đâm ra "thương hại" các nhà-văn-chân-chính-thứ-thiệt-một-trăm-phần-trăm, mặc dù họ sẵn sàng phỉ nhổ, huỵch toẹt vào cái "tâm" của tôi. Các anh các chị làm ăn nghiêm túc nhưng "Văn chương hạ giới rẻ như bèo - Kiếm được đồng lãi thực là khó".
Ngày mồng sáu Tết tôi trở lại với công việc mưu sinh. Tôi ra đi từ sáng sớm và trở về trong đêm tối. Con tàu Thống Nhất dừng bánh ở ga Huế muộn hơn thường lệ. Để tiết kiệm một cuốc xe thồ ba ngàn đồng từ sân ga về đến Thành nội, tôi quyết định cuốc bộ. Ngang qua nhà Văn hóa Thiếu nhi, tôi ghé quán cà-phê "Cây Si" uống một li chanh nóng. Quán vắng người hình như chỉ có một mình tôi. Không, còn thêm một người nữa - đúng hơn là một con bé. Tôi chưa kịp cầm li nước thì con bé đã sốt sắng mời tôi mua diêm. Dĩ nhiên là tôi có ngạc nhiên về cô bé. Đêm tối mù, trời lạnh. Bên ngoài đường cái vắng người. Bên trong quán, đèn sáng lờ mờ. Cô bé đi bán diêm vào giờ này, chắc là gia đình nó túng thiếu lắm. Tôi không cần diêm vì tôi đã có hộp quẹt gaz, nhưng tôi cũng đồng ý mua hộp diêm của cô bé. Cô bé chìa ra bao diêm, trong khi tôi lục túi tìm tờ giấy bạc. Tôi vốn dễ mủi lòng trước cái khổ của người khác, nhất là người khác ấy lại là một em bé gái mà tôi không nhìn rõ mặt. Trong ánh đèn vàng vọt của quán cà phê, tôi thấy bàn tay em run run, có lẽ vì trời quá lạnh. Bỗng nhiên tôi nghe cô bé kêu lên một tiếng thảm não. Cô đã vô ý đánh rơi hộp diêm vào li nước chanh của tôi. Sự việc đó cũng bình thường thôi, nhưng phản ứng của cô bé thật lạ lùng. Cô bé lại còn bưng mặt, hình như khóc. Tất cả những gì tôi thấy và nghe đã khiến tôi xúc động thật sự.
Tôi an ủi:
- Thôi cháu đừng tiếc nữa, tiếc gì một hộp diêm. Đây chú đền cho cháu hai ngàn đồng đây.
Tôi đưa tờ bạc mới tinh ra trước mặt nó. Nhưng tôi bỗng ngạc nhiên vì nó không nhận, nó lí nhí cảm ơn tôi và lủi thủi bỏ đi.
Trên đường về, tôi nghĩ ngợi mãi mà vẫn không hiểu tại sao chỉ vì một hộp diêm ướt mà con bé lại đau khổ như vậy. Tại sao nó lại không chịu nhận lòng tốt của tôi?
* * *
LỜI KỂ CỦA EM BÉ
Năm nay em mười hai tuổi, học lớp sáu. Thầy giáo dạy văn của em là thầy Bích. Cùng với sách văn, thầy Bích đã đưa em và các bạn vào thế giới kỳ diệu của những câu chuyện cổ. Những câu chuyện cổ tích đã cám dỗ em mãnh liệt.
Một lần thầy đã kể cho chúng em nghe chuyện “Cô bé bán diêm” của nhà văn Andersen, người Đan Mạch. Câu chuyện đã cuốn hút chúng em một cách kì lạ. Chúng em như tưởng tượng thấy được hình ảnh cô bé bán diêm nghèo khổ gầy gò vì đói, co ro vì lạnh. Khi thầy kể đến chỗ cô bé gục chết và sự vô tâm của người đời thì em và các bạn không nén được nước mắt. Chúng em đâm ra oán trách ông Andersen, oán trách ông sao lại để cho cô bé phải chết khi tuổi còn thơ. Tại sao không ai cứu cô bé? Tại sao không có một người hảo tâm nào mua diêm cho cô, cho cô sưởi ấm, cho cô ăn đưa cô về nhà? Tại sao mọi người phát hiện cái chết của cô mà vẫn thản nhiên? Một bạn em đã hỏi thầy chuyện cô bé bán diêm có thật không hay do người lớn bịa ra. Trước câu hỏi ngây ngô của bạn em, thầy cũng phải cười "ồ, cũng có thể có thật". Thầy lại cười và nói thêm: "Bao giờ loài người thoát khỏi cảnh nghèo đói thì những cô bé bán diêm mới có thể được đi học như các em". Thật ra em chưa hiểu hết lời thầy nhưng em tin rằng chuyện cô bé bán diêm là có thật.
Sau buổi học, em đã về nhà với một tâm trạng đầy thương cảm. Hai ba ngày sau, cái chết của cô bé bán diêm trong đêm giao thừa trời rét dữ dội của nước Đan Mạch vẫn còn ám ảnh tâm trí em. Cho đến một hôm em nằm mơ. Trong mơ, em thấy một cô gái xiêm y lộng lẫy, đầu đội vương miện ngũ sắc tiến đền gần em với nụ cười tươi tắn trên gương mặt hồng hào rạng rỡ.
Cô-gái-quí-tộc gật đầu chào em ra chiều thân mật:
- Chào em gái, em có nhận ra chị không?
Cô gái có vẻ quen quen, hình như em đã gặp cô một lần nào rồi. Em cố lục lọi trí nhớ, nhưng trí nhớ của em chẳng mách bảo cho em điều gì.
- Chị hổng phải là người xa lạ với em đâu, dù chị là người nước ngoài. Chẳng lẽ em hổng nhớ rằng em vẫn thường hay nghĩ về chị đó sao? Chị là... Em mừng rỡ kêu lên:
- Chị ơi, em nhớ ra rồi. Chị là cô bé bán diêm. Chị thay đổi nhiều quá, làm sao em nhìn ra được?
Phải rồi trước mắt em là "cô bé bán diêm" bằng da bằng thịt, em chạy vội lại cô gái, nắm hai tay cô. Nhưng em lại vội rút hai tay lui vì em sực nhớ "cô bé bán diêm" đã chết từ lâu lắm rồi:
- Ủa! Làm sao mà chị được sống lại vậy?
Cô gái cất tiếng cười khanh khách:
- Sao em ngây thơ quá vậy. Em hổng nghe người ta thường nói nhà văn là thượng đế đó sao? Ông già Andersen đã thực hiện lời cầu xin của trẻ em trên toàn thế giới nên ổng đã cho chị được sống lại. Đây, em hãy nhìn kỹ gương mặt của chị một lần một lần nữa đi. Có đúng chị là cô bé bán diêm không nào?
Em kêu lên mừng rỡ:
- Đúng rồi chị ơi, chị chính là cô bé bán diêm đã làm cho em phải ứa nước mắt khi thầy em kể chuyện về chị.
- Không những ông Andersen cho chị sống lại mà ông còn cho chị đi học, cho chị nhiều quần áo đẹp nữa, cưng à.
Cô gái quay một vòng, xiêm áo cô, vương miện của cô lấp lánh muôn màu trong đêm. Cô còn trang sức bằng những vòng ngọc đủ màu, hoa tai bằng vàng, giày nhung nạm bạc.
Em vẫn không nén được ngạc nhiên:
- Chị ơi, em chúc mừng cho chị, nhưng em sợ người ta không còn nhận ra chị là cô bé bán diêm nữa, chị đã trở thành công chúa mất rồi.
- Thế thì cưng cứ gọi chị là công chúa bán diêm cũng được. Nhưng tại sao mọi người lại hổng muốn cho chị được sung sướng?
- Không, không phải như thế đâu chị ơi! Nhưng chị phải nhớ rằng sở dĩ người ta mãi mãi còn nhớ đến chị vì chị là cô bé bán diêm và ông Andersen bất tử vì ông là cha đẻ của chị.
- Không, cưng đừng hiểu lầm chị. Trước sau chị vẫn là cô bé bán diêm, cô bé nghèo đói đã từng mơ ước cái lò sưởi, con ngỗng quay, cây thông Nô-en, mơ ước được theo bà bay vụt lên trời, nơi chẳng còn đói rét, đau buồn, trong cái đêm giao thừa năm ấy.
Công-chúa-bán-diêm ngập ngừng một lát như để nén cảm xúc, cô nói tiếp:
- Chị biết tuổi thơ trên khắp hành tinh này còn nhiều vất vả. Ông Andersen cũng biết thế, nên ông đang soạn thảo bức Thông điệp gởi Liên Hiệp Quốc đó cưng. Nhưng thôi chị báo cho cưng một tin mừng: lần này chị cất công qua Việt Nam là để giúp cưng thực hiện một ĐIỀU ƯỚC.
Em mừng rỡ kêu lên:
- Thật hả chị? Thế chị giúp cho ba em sống lại được không?
- Không thể được. Ông Andersen nói chỉ có vĩ nhân mới bất tử.
- Chị giúp em học giỏi có được không?
- Không thể được. Muốn học giỏi em phải tự lực, đừng dựa vào bất cứ ai ngoài bản thân em. Em hãy ghi nhớ lời ông Buýp - phông: “Thiên tài chỉ là một sự kiên nhẫn lâu dài”.
- Thưa chị em biết, ở nước em cũng có câu tương tự: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Em xin chị một ĐIỀU ƯỚC CUỐI CÙNG: Nhỏ bạn em bị tai nạn vì pháo. Đôi mắt nhỏ đang mất dần ánh sáng cuộc đời.
- Được, nhưng với một điều kiện là em phải bán diêm như chị trước kia. Em phải chọn một đêm trời rét để đi bán diêm và em phải bán được một bao diêm cho một người khách độc nhất còn sót lại tại một địa điểm thường đông người lui tới như chợ búa, nhà hàng chẳng hạn.
- Chị ơi, điều kiện của chị khó quá. Sao em làm theo cho được?
- Em ơi, không có thắng lợi nào nằm trong tầm tay của chúng ta cả. Chị cầu chúc em kiên trì thực hiện điều ước tốt đẹp nhất của chúng ta.
Nói xong, công-chúa-bán-diêm người Đan Mạch biến mất. Em giật mình thức giấc, cố nhớ lại giấc mơ và em tin lời công chúa dặn là có thật.
Em đã thực hiện lời dặn của công-chúa-bán-diêm. Đêm mồng bốn Tết. Một đêm rét nhất của Huế. Một đêm vắng khách vãng lai. Em đã may mắn gặp được ông-khách-độc-nhất Bưu điện. Rủi thay, chú ấy không chịu mua.
Đêm sau, cũng gặp một người-khách-độc-nhất trước cửa Ngọ Môn. Chú ấy đứng sững sờ, đôi mắt chú ấy cứ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mắt. Em đến gần chú, mời chú mua diêm. Chú ấy bảo em đừng làm phiền chú, nhưng em vẫn nài nỉ vì em nhớ lời công chúa bán diêm dặn "phải kiên trì". Nhưng chú ấy đã phóng xe đi với một thái độ khó hiểu.
Sau hai lần thất bại, em tự nhủ mình phải kiên trì tiếp tục công việc một lần thứ ba nữa. Đêm mồng sáu Tết em ra khỏi nhà sớm hơn thường lệ. Em phải nói dối mẹ em rằng em đi thăm bạn em đang nằm viện, mẹ mới cho đi. Em còn hứa với mẹ là sẽ về sớm cho mẹ yên lòng. Em tự nhủ đêm nay là đêm cuối cùng. Đến ngày mai chắc em không còn được phép thực hiện điều ước cuối cùng nữa. Trong đêm này em đã may mắn gặp được ông-khách-độc-nhất ở quán "Cây Si". Phút trọng đại mà em chờ đợi mấy ngày nay sắp đến. Em sắp bán được hộp diêm duy nhất cho người khách độc nhất. Em nghe như có muôn tiếng hò reo, muôn ngọn lửa nồng phát ra từ hộp diêm mà em đang cầm trong tay. Hình ảnh nhỏ bạn em hiện ra. Kìa! Đôi mắt nhỏ đã sáng ngời trở lại! Quá xúc động đâm ra luống cuống, em run tay và hộp diêm... Trời ơi, em đã làm hỏng điều ước cuối cùng rồi. Nước mắt em dàn dụa.
* * *
LỜI CỦA NGƯỜI CHÉP TRUYỆN
Những ngày sau đó, trời vẫn còn rét đậm, nhưng tôi không còn thấy cô bé đi bán diêm nữa. Chắc cô bé đã nhận ra mộng, thực không thể trộn lẫn vào nhau. Nhưng tôi tin ước mơ cháy bỏng của em vẫn còn đó. Tôi chỉ sợ một điều là một ngày gần đây, trời sẽ ấm trở lại, lúc đó, điều ước cuối cùng của cô bé sẽ tan vào hư không.
Tôi khép lại câu chuyện với niềm tin chắc chắn rằng: Nhỏ bạn của cô-bé-mê-chuyện-cổ-tích rồi sẽ được sáng mắt trở lại vì một lẽ thường tình nhưng khó giải thích:
Lòng nhân hậu của con người có khả năng làm nên phép màu.
Thành Nội tháng 2-93
Đ.T.H.
(TCSH55/05&6-1993)
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.
TRẦN THỊ TRƯỜNGNgày trăng tròn lẻ. Tháng Trung Thu năm Đại Bảo thứ 3.Người hai lưỡi bảo là ngày Sao Thổ phạm vào Thái Âm.Người ngắn lưỡi nói Sao Chổi mọc ở phương Tây.Người dài lưỡi bảo có tinh vượn đen ăn mặt trời, ngày Nhật thực, nếu không yểm kỹ sông Nhị đang nảy vàng ròng sẽ ngừng.Động đất.
VIỆT HÙNGTrước đây, anh là người lừng danh, một tay "cua - rơ khét tiếng" trên xa lộ. Đã một thời anh chỉ biết chiến thắng. Người ta từng mệnh danh, anh là người sinh ra để đua xe đạp, anh không hề có đối thủ. Anh xem thường sự chiến thắng của mình, cho nó là điều hiển nhiên. Anh coi ánh hào quang của vòng nguyệt quế chỉ có tác dụng tô điểm thêm cho vẻ đẹp của mình mà thôi. Bởi, không có nó, anh vẫn là một thần tượng chẳng gì "khuất phục nổi".
NGUYỄN THÁNH NGÃĐêm nay trăng nhão, không biết là đêm trăng gì. Ở xa nhìn về đồi Kà Mạ vẫn một khối đen sì. Nếu có ai nhướn mắt nhìn thật kỹ sẽ thấy cái khối đen sì ấy nhô lên như một cái đầu người đôi mắt lấp láy đom đóm. Thỉnh thoảng gió hất cái đầu tóc rối bù xù bay về phía ruộng. Tiếng chim cú kêu mỗi lúc một thê lương, ớn lạnh từng đốt xương sống...