Gặp người cuối cùng trong nhóm biên dịch “Mục lục Châu bản triều Nguyễn”

15:22 01/09/2009
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

Nói dưỡng lão, nhưng bác vẫn luôn bận bịu. Lúc tôi phóng chiếc xe máy từ từ leo lên cái dốc nhỏ để vào khu vườn của bác, thì bác đã đứng sẵn ở ngoài cổng lớn. “Tôi vừa tiễn một ông khách xong. Ông ấy người ở làng trên, vừa xuống xin chữ” - bác nói. Tôi theo bác Lại vào nhà, ngồi xuống bên chiếc bàn quen thuộc mà lần trước bác đã tiếp tôi. Trên mặt bàn còn la liệt những tờ giấy với các chữ Nho viết với các kiểu khác nhau. Chưa kịp uống ly trà thì có chuông điện thoại. Bác xin lỗi tôi để vào phòng trong tiếp điện thoại. Trở ra, bác thông báo: “Có một ông bạn ngoài Huế hỏi tôi về một vài từ trong cuốn sách tôi dịch cho ông ấy làm tài liệu”. Rồi bác lại nhẹ nhàng vào chuyện.

- À! Lần trước tôi đã nói với anh rằng, khi người ta giới thiệu tôi là người cuối cùng trong nhóm biên dịch MLCBTN, tôi đã xin được nói lại cho rõ, rằng tôi chỉ tham gia trong nhóm đó một thời gian ngắn, và cũng chỉ dịch được chưa đầy nghìn trang. Còn thì công lao của các cụ lão nho cả! Lúc ấy tôi chưa đầy ba mươi, các cụ đều ở cái tuổi trong ngoài sáu mươi cả rồi. Nhưng khi nghe tôi là người đậu đầu kỳ thi vào Viện Hán học, lại là người xứ Quảng, các cụ thích lắm, tôi được tín nhiệm và được “đặc cách” tham gia vào nhóm dịch thuật ấy. Hồi đó là những năm cuối thập kỷ năm mươi, đầu thập kỷ sáu mươi, chính quyền Ngô Đình Diệm dành cho Huế vị trí trở thành một trung tâm giáo dục đào tạo, một trung tâm bảo tồn, lưu giữ những di sản văn hoá cổ của dân tộc cũng như của vùng Á Đông. Viện Đại học Huế được thành lập năm 1957 thì ba năm sau, Viện Hán học được mở ra, trực thuộc Viện Đại học Huế. Cụ Lương Trọng Hối, một lão nho từ trước 1945, từng làm quan Tuần vũ cùng thời Ngô Đình Diệm, được bổ làm Viện trưởng Viện Hán học. Khi tôi làm việc ở Uỷ ban phiên dịch sử liệu thì Tiến sĩ Nguyễn Huy Nhu làm Trưởng ban, ông Nguyễn Duy Bột được cử làm Thư ký Uỷ ban. Tiến sĩ Nguyễn Huy Nhu người Hà Tĩnh, là cháu của cụ Nguyễn Huy Tự, một gia đình có truyền thống Nho gia nổi tiếng. Trước đó, Giáo sư Trần Kinh Hoà từ Đại học Hồng Kông sang thỉnh giảng đuợc mời làm Trưởng ban Dịch thuật. Chính Giáo sư Trần Kinh Hoà đã thu thập từ các trung tâm tư liệu ở Nhật, Hồng Kông, Anh quốc... đưa về Huế nhiều bộ sách quý. Bộ sử đầu tiên mà Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam chọn dịch, cuốn An Nam Chí Lược của tác giả Lê Tắc, cũng chính là từ nguồn sách mà Giáo sư Trần Kinh Hoà đem sang.

... Còn về MLCBTN, tôi có thể giới thiệu tóm tắt như thế này. Châu bản Triều Nguyễn là tập hợp rất đồ sộ các văn bản biên chép suốt 143 năm trị vì của các vua nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Bảo Đại, bao gồm các loại văn bản: Sắc, Dụ, Chiếu, Chỉ của vua ban; các tờ Tấu, Sớ của các quan trong triều; các tờ truyền, sai, phó, khiển (tương đương với các loại công văn hành chính của các cơ quan, tổ chức nhà nước). Trước năm 1959, theo tôi được biết, thì toàn bộ Châu bản Triều Nguyễn có hơn 700 tập, với hàng trăm nghìn bản ghi bằng chữ Hán. Đó là một kho sử liệu quý giá được các nhà nghiên cứu văn hoá, lịch sử rất quan tâm. Tuy vậy, việc nghiên cứu bị hạn chế, vì kho sử liệu thì đồ sộ, chưa được sắp xếp, phân loại, mà lại được viết bằng chữ Hán. Trước năm 1959, Châu bản Triều Nguyễn bộ gốc với hơn 700 tập được Viện Văn hoá Huế quản lý. Từ năm 1959, Viện Đại học Huế tiếp nhận toàn bộ Châu bản còn lại, khoảng hơn 600 tập, đưa vào khai thác để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu. Để việc nghiên cứu được thuận tiện, từ năm 1959, Uỷ ban phiên dịch sử liệu tiến hành chỉnh lý tài liệu theo thứ tự các đời vua, rồi biên dịch tài liệu theo phương pháp tóm lược, thành từng bản phiếu có phần trích yếu nội dung bằng song ngữ Hán Việt. Theo cách làm việc như thế, không phải toàn bộ Châu bản được dịch, mà chỉ phân loại và dịch tóm lược, vì thế, số văn bản này được gọi là Mục lục Châu bản Triều Nguyễn. Còn cách làm việc lúc đó là như thế này. Theo kế hoạch được sắp xếp đặt từ trước, mỗi thành viên trong nhóm nhận một tài liệu. Ông Nguyễn Duy Bột, Thư ký Uỷ ban, là người trực tiếp đi nhận tài liệu gốc từ người quản thư, rồi giao cho từng người trong nhóm. Người nào cũng phải đọc kỹ các tài liệu được giao, có khi là một bản sớ dài 2 đến 3 ngàn từ, nhưng người biên dịch phải tóm tắt nội dung tài liệu đó trong khoảng 100 từ bằng tiếng Hán, sau đó dịch ra tiếng Việt. Cứ làm một bản tóm tắt khoảng một trăm từ và dịch ra tiếng Việt thì được thù lao khoảng mười đồng. Công việc đó mới đầu làm thì háo hức, nhưng về sau thì nhàm chán lắm. Một điều khác mà tôi thấy, đó là nhiều bản dịch lúc bấy giờ chuyển ngữ còn yếu lắm. Nhiều cụ có hàng vạn chữ Hán nhưng dịch sang tiếng Việt thì rất lúng túng. Thì ra, việc dịch này không phải chỉ có vốn tiếng Hán là đủ, mà chính lại là phải giỏi, phải thạo tiếng Việt mình... Sau gần một năm tham gia Uỷ ban phiên dịch sử liệu ấy, do hoàn cảnh riêng, tôi xin thôi việc, đồng thời cũng thôi học ở Viện Hán học mà chuyển sang Đại học Sư phạm, học chuyên ngành Việt Hán. Dẫu sao, quãng đời ấy cũng để lại cho tôi một vốn tri thức lớn lao, và đa số những người làm việc ở đó cũng đã có nhiều nỗ lực để tạo nên một công trình khoa học rất có giá trị. Chỉ tiếc là, người ta đã không gìn giữ được nó như khi nó được biên dịch công phu ngày nào...”

Chuyện nay

Nhìn vẻ băn khoăn của bác, tôi hỏi: “Vậy số phận của công trình khoa học đó hiện giờ ra sao? Bác còn quan tâm đến đứa con tinh thần đó nữa không?”. “Ồ, sao lại không. Dẫu còn một số khiếm khuyết, nhưng đó vẫn là một kho tài liệu quý hiếm. Tôi chỉ tiếc rằng, nó đã bị mất mát, thất lạc khá nhiều.”

Gần đây, khi tham dự một cuộc hội thảo khoa học ở Huế, tôi được ông Nguyễn Hồng Trân, nguyên Giám đốc Thư viện Đại học Huế một thời gian khá dài sau ngày giải phóng, cho biết hiện nay, thư viện Đại học Khoa học Huế tiếp nhận và lưu giữ được 121 tập bản gốc viết tay của MLCBTN, với 18.191 bản phiếu ghi. Đại học Huế cũng còn lưu trữ 2 tập MLCBTN đã được Viện Đại học Huế xuất bản năm 1960 (Triều GIA LONG), và năm 1962 (Triều MINH MẠNG, phần I, từ năm 1820 đến 1824). Mãi đến năm 1998, nhờ sự tài trợ của quốc tế, thư viện Trường Đại học Khoa học Huế phối hợp với Cục Lưu trữ Nhà nước và Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu Văn hoá thuộc ĐHQG Hà Nội đã biên tập và xuất bản tiếp được quyển sách MLCBTN tập II MINH MẠNG 6 (1825) và 7 (1826). Tuy vậy, sự mất mát là rất lớn so với thời kỳ Viện Đại học Huế biên dịch và phân loại MLCBTN. Thí dụ, khi Viện Đại học Huế tiếp nhận Châu bản Triều Nguyễn, triều đại Minh Mạng còn 83 tập, thì nay chỉ còn 33 tập. Tương tự, triều Thiệu Trị còn 35/51, triều Tự Đức bị mất mát nhiều nhất, chỉ còn 53 tập so với 352 tập, thiếu hẳn đi 25 năm, từ năm thứ 11 đến năm thứ 35. Còn các tập châu bản từ triều đại Kiến Phúc đến Bảo Đại thì không biết đã chuyển đi đâu. Nhưng dẫu sao cũng thật đáng mừng là, những người quản lý ở Đại học Huế đã rất “biết người biết của”. Họ đã trân trọng giữ gìn những gì còn lại của kho tài liệu này. Từ năm 1985, Thư viện Đại học Tổng hợp Huế bắt tay vào việc chỉnh lý những tài liệu đó trước khi đưa ra phục vụ cán bộ, giáo viên và sinh viên tham khảo, nghiên cứu. Ông Nguyễn Hồng Trân cho biết chính ông và ông Nguyễn Cửu Sà đã bỏ ra 3 tháng sắp xếp lại kho tư liệu quý hiếm đó, bảo quản các tư liệu ấy trong các hộp carton dày và có đánh số, ghi tên triều đại từng vua. Đến năm 1993 Tiến sĩ sử học Đỗ Bang tài trợ cho thư viện sao chụp một bản dùng để phục vụ người đọc, còn bản gốc được sắp xếp cẩn thẩn để lưu giữ bảo tồn. Tuy đã được giữ gìn trân trọng như thế, nhưng chất lượng các bản gốc viết tay của MLCBTN hiện nay đã giảm sút rõ rệt. Ông Trân cũng cho biết, hầu hết các tờ bản phiếu ghi đã vàng thâm, mục ải. Có khoảng 50% bản phiếu giấy bị vàng thâm, 30% giấy bị mục ải...

- “Theo bác thì bây giờ có nên dịch lại Châu bản Triều Nguyễn như nhiều người đề nghị hay không?” Tôi hỏi chen vào, khi bác đang chậm rãi nhấp một ngụm trà.

- “Cần chứ, vì đó là một kho sử liệu lớn và quý lắm. Công việc nghiên cứu càng phát triển, càng đòi hỏi tính khoa học cao, những sử liệu dẫn chứng cần rất chuẩn xác. Xung quanh những những vấn đề về triều Nguyễn, về phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta chống Pháp xâm lược, về nhiều nhân vật trong thời kỳ đó, vẫn còn nhiều điều phải được bổ sung, làm sáng tỏ thêm. Mà những tư liệu trong kho sử liệu quý hiếm như Châu bản Triều Nguyễn, dẫu còn nhiều điều hạn chế, nhưng vẫn là những chứng cứ rất quan trọng cho những nhà nghiên cứu...” Rồi chỉ vào quyển sách mà bác đưa cho tôi lúc tôi vừa đến, bác nói: “Bây giờ, một số người chạy theo mục đích riêng của mình, hoặc chạy theo cơ chê thị trường, vẫn thường ngụy tạo ra một số những tư liệu gọi là tư liệu lịch sử, nhưng thực chất có thể gọi là tư liệu giả hiệu. Tôi viết cuốn sách đó, dựa theo những tư liệu mình đã được đọc trực tiếp từ những ngày xa xưa, có tham khảo thêm tư liệu của mấy người bạn, để bày tỏ ý kiến của mình trước một số hoạt động nghiên cứu sử học của một số nhà biên khảo theo khuynh hướng “đặt lại vấn đề”...

Chiều đã xuống trên vùng xóm đối ven sông. Ánh nắng nhạt của một chiều giữa mùa xuân nhuộm vàng những vòm cây cao trong khu vườn nhà bác Lại và cả khu đồi Phong Bắc mênh mông, nơi có vùng lăng mộ của danh nhân Ông Ích Khiêm vừa được trùng tu tôn tạo khang trang. Bác Lại tiễn tôi ra cổng, cũng vừa lúc những đứa  cháu nhỏ đi học về ríu rít ùa vào khoảng sân rộng, lễ phép khoanh tay: “Thưa nội, con đi học về!”. Nét mặt của bác Lại lúc này bỗng như sáng lên, khi nhìn những chiếc khăn quàng đỏ phất phơ trên ngực mấy đứa cháu nhỏ, in lên khuôn mặt các cháu những ánh hồng tươi.

N.T.Đ
(186/08-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Theo nhạc sỹ-nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan, sau 5 năm được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào “Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại,” từ việc thiếu vắng đội ngũ kế thừa, ca trù đã hình thành được một đội ngũ nghệ sỹ kế cận khá đông đảo. Đây là một trong cơ sở quan trọng để loại hình nghệ thuật này trở thành “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.”

  • Khác với những kỳ liên hoan trước thường tập trung vinh danh các nghệ nhân lão thành, Liên hoan ca trù toàn quốc 2014 sẽ tập trung giới thiệu đội ngũ nghệ sỹ kế cận của loại hình nghệ thuật này.

  • Đó là nhận định của TS. Nguyễn Bình Định, Viện trưởng Viện Âm nhạc, về Ca trù – di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp – trước khi Liên hoa Ca trù toàn quốc diễn ra tại Hà Nội vào 26.8 tới.

  • Quảng Ngãi có 6 huyện miền núi, tập trung chủ yếu là người đồng bào các dân tộc Cor, H’rê và Cadong cùng chung sống.

  • Cây bồ 3 thân độc đáo có tuổi thọ gần 200 năm trong một đền thờ tại tỉnh Phú Yên vừa vinh dự được công nhận là Cây di sản Việt Nam.

  • Thông tin hai tập đoàn tư nhân trình đề án được “nhượng quyền” quản lý, khai thác Vịnh Hạ Long làm nóng dư luận suốt hai tuần qua. Bởi Vịnh Hạ Long không phải một danh thắng du lịch bình thường, mà đó còn là một di sản thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận và có thể xem là một di sản nổi tiếng nhất của Việt Nam đối với thế giới.

  • Ủy ban Nhân dân tỉnh Hải Dương đã quyết định dành 18,7 tỷ đồng để tu bổ, tôn tạo Khu di tích Văn Miếu Mao Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương).

  • Trả lời phỏng vấn của Tia Sáng, TS Nguyễn Hồng Kiên (Viện Khảo cổ học Việt Nam) cho rằng, từ trước đến nay, di tích/di sản luôn luôn bị xây dựng/phát triển lấn át, mà trường hợp Hoàng thành Thăng Long bị xâm phạm bởi công trường Nhà Quốc hội là bằng chứng mới nhất.

  • Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội) được biết đến là một di sản văn hóa có giá trị đặc biệt quan trọng, mang ý nghĩa tiêu biểu cho dòng chảy lịch sử văn hóa liên tục của trung tâm quyền lực, chính trị, văn hóa cao nhất Việt Nam.

  • Khu nghỉ dưỡng Villa Tolomei Hotel & Resort từng là một tu viện cổ hoang tàn đổ nát, nhưng nay lại là điểm đón khách nghỉ dưỡng sang trọng bậc nhất ở ngoại ô Florence, Italy. Công trình là bằng chứng rõ ràng cho thấy sự hợp tác tốt giữa nhà nước và tư nhân trong việc quản lý di sản văn hóa có thể giúp mang lại trái ngọt.

  • Gần một năm sau khi ngựa sắt đi kèm bộ áo giáp, roi sắt được cung tiến và tự ý đưa vào đền Phù Đổng, đến nay số hiện vật này vẫn ngự tại đền Phù Đổng (Gia Lâm).

  • Sau khi UNESCO công nhận di sản thế giới, trang Bluewin của Thụy Sĩ giới thiệu Tràng An là một trong 10 điểm đến mới. Ông Bùi Văn Mạnh, Phó Giám đốc BQL Quần thể danh thắng Tràng An chia sẻ thêm về hành trình thành di sản thế giới, và hứa hẹn điểm đến hấp dẫn trong thời gian tới.

  • Nhằm gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, huyện Thuận Thành, giai đoạn 2014-2020 và định hướng đến 2030” với tổng kinh phí gần 60 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn khác.

  • Chiếc long sàng của vua Thành Thái, một “báu vật” cùng với chiếc xe kéo mà nhà vua dành tặng mẹ sau khi phía Việt Nam đấu giá không thành công tại Pháp - hiện có cơ hội trở về Huế rất lớn.

  • Ngày 16-6, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế đã gửi văn bản khẩn đến UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế và Bộ VH-TT&DL đề nghị sớm có ý kiến với Chính phủ và Bộ Ngoại giao tìm giải pháp đưa hiện vật của vua Thành Thái vừa mua được về nước.

     

  • Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam. 

  • NGUYỄN VĂN DẬT

    Du khách các nước về tham dự Festival Huế, chắc chắn không thể không tham quan các sản phẩm đúc đồng ở Cố đô Huế và các sản phẩm hiện đang trưng bày tại các gian hàng ở phố chợ, nhất là tại Trung tâm làng nghề ở Phường Đúc - đường Bùi Thị Xuân và các cơ sở đúc đồng quanh Phường Đúc.

  • TAKESHI NAKAGAWA

    LTS: Takeshi Nakagawa là GS. TS. Giám đốc Viện Di sản Waseda (Nhật Bản). Bài viết dưới đây, được ông trình bày tại dịp Kỷ niệm 20 năm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO tôn vinh là Di sản Văn hóa Thế giới. Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

  • (SHO). Hôm 18.2, Dự án bảo tồn làng cổ Đường Lâm đã chính thức nhận Giải thưởng của UNESCO Khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là câu chuyện mà các di tích làng cổ của Huế và các nơi khác phải học hỏi. Cả nước hiện có 9.000 làng được nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

  • (SHO) - Sáng 21/9 tại thành phố Huế đã diễn ra hội nghị “Bảo tồn và phát triển bền vững di sản thế giới ở Việt Nam, nhìn lại chặng đường 20 năm qua và hướng đến tương lai của di sản Huế”.