BẠCH LÊ QUANG
Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.
Gác Trịnh đón văn nghệ sĩ ghé về
Và nếu nhìn nghệ thuật, âm nhạc trong cuộc lữ đầy đặn tình nhân bản như thế, nhạc Trịnh Công Sơn, mãi mãi và cuối cùng sẽ luôn là một thứ Kinh - Kinh tình yêu - nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Nó làm tươi lại bông hoa đầu tiên mà con người đã mang theo từ vườn Địa Đàng”.
Năm 1990, trong một tuyển tập những ca khúc của mình, Trịnh đã viết: “Thân tặng các bạn đã một thời cùng tôi hát tình ca”. Tình ca nhạc Trịnh như mạch suối bất tận, ngọt lành chảy mãi giữa đời mà con người không thôi uống cạn mỗi khi giật mình nhìn ngắm lại cõi an trú vốn quá vô thường nầy.
Trong lời cuối bài Vẫn nhớ cuộc đời, Trịnh đã thay mặt những bất an, khắc khoải của kiếp nhân sinh để xin tình yêu ở mãi với đôi môi cứu rỗi. Vâng, Trịnh đã hát “Dù còn phút cuối, xin em nụ cười”. Xin em nụ cười, dù có thể, em sẽ đến sẽ đi, dù mộng trùng lai luôn là một cuộc hôn phối bất trắc. Và bởi: “Dù em khẽ bước không thành tiếng, cõi đời bao la vẫn ngân dài” (Vẫn có em bên đời).
Trong Tạ ơn, Trịnh Công Sơn, “người tình lãng du của nhiều thế hệ”, lại biến âm nhạc của mình thành một thứ Kinh để tụng ca sứ mệnh tình yêu trong một nỗ lực gần như là duy nhất của cõi người nhằm hái một nụ hồng vĩnh cữu thoáng bóng thiên đàng. Ừ thì, “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã đưa Em về chốn này”.
Với Mưa nguồn, Bùi Giáng, kẻ rong chơi giữa phố thị đìu hiu “Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt - Thấy một người đi lại lang thang - Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt - Mưa vi vu vì hẹn với truông ngàn”. Chút ân tình trong cỏ nhặt ấy đã dẫn Trung Niên thi sĩ họ Bùi ngẫu nhĩ trùng phùng với Trịnh trong những mộng ước không mệt mỏi với kiếp người để “hái một nhành hoa của đá”, cũng là nhành hoa tình yêu hóa thạch giữa “từng lời tà dương là lời mộ địa”.
Và có thể, em ơi “Nếu mộng không thành” chúng ta hà cớ gì không mộng ước. Bởi giữa tàn tro của Phúc Âm khi mà con người chỉ là một thứ “cát bụi mệt nhoài”, tình yêu của Trịnh hình như sẽ là địa chỉ tin cậy cuối cùng để trần gian nhờ đó mà thưa gửi cùng thiên thu. Ở đó, những tình khúc đắm đuối của Trịnh sẽ vang ngân những lời kinh tình yêu mê đắm và quyến rũ: “Những khi chiều tới cần có một tiếng cười” (Để gió cuốn đi); “Tình cho nhau môi ấm. Một lần là trăm năm”. (Tình sầu). Ở đó, kinh tình yêu Trịnh cất lên lay thức trần gian với ý nghĩa rằng, tất cả chỉ là một giấc mơ đời phù hoa và tình yêu sẽ mãi là một cám dỗ bình an giữa đến - đi, mất - còn. Trong Rồi như đá ngây ngô, với ý nghĩa đó, Trịnh thảng thốt: “Từng ngày tình đến, thiết ca ân cần - Từng ngày tình đi, một ngày vắng im”.
Có thể “Đường trần đâu có gì”, có thể, một sát na của thiên thu, con người bỗng ngậm ngùi nhận ra “Những hẹn hò từ đây khép lại, thân nhẹ nhàng như mây” (Như một lời chia tay)… Và giữa cái có thể bất ngờ Nghe những tàn phai gọi tên kiếp người ấy, Trịnh đã vươn tay thắp một ngọn nến hồng kết tủa lung linh những ánh sáng mầu nhiệm mang tên tình yêu để cho đời một ngôi nhà an trú. Đó là một ngôi nhà, một Gác Trịnh, mà âm nhạc Trịnh đã dìu những người yêu nhau vào đó, bỏ lại sau lưng những “dấu chân địa đàng” cô đơn và kiều diễm. Ngôi nhà ấy, Gác Trịnh ấy cùng những hàng cây Long Não trên đường luôn “xanh gần với nhau” cho một bảo bọc cứu rỗi.
Sinh thời, Trịnh nói: “Tôi chỉ là tên hát rong đi qua miền đất nầy để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo”.
Và chiều nay, ở Huế, trong căn gác đìu hiu, Gác Trịnh trên đường Nguyễn Trường Tộ xanh mướt hồng nhan, tôi đang hát tiếp cùng bạn bè, những tấm lòng Huế yêu Trịnh những giấc mơ đời hư ảo của Trịnh. Hát để ngỡ ngàng nhận ra trong nỗi cô đơn tột cùng rằng, hình như cuộc đời nầy vẫn quá cần thiết những bản tình ca, những khúc Kinh tình yêu của Trịnh.
Những bản tình ca, những khúc Kinh tình yêu trên Gác Trịnh để “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”.
Huế. Vào hạ. 2013
B.L.Q
(SDB10/09-13)
PHÚC ĐƯỜNG
Hổ Quyền là đấu trường hoàng cung (les Arènes royales) được xây dựng cách đây 162 năm dưới thời Minh Mạng.
PHẠM XUÂN DŨNG
Nếu ai vào Cố đô Huế mà đến thăm di tích thật đặc biệt, có một không hai là Hổ Quyền sẽ thấy vàng son một thuở của uy quyền phong kiến khi cho xây dựng đấu trường để hổ đấu với voi, phảng phất đấu trường La Mã cổ đại.
MAI VĂN ĐƯỢC
VÕ VINH QUANG
VŨ NHƯ QUỲNH
TÔ NHUẬN VỸ
Chỉ còn ít ngày nữa khai mạc Liên hoan Ảnh nghệ thuật của 6 tỉnh Khu 4 cũ nhưng Ban tổ chức vẫn chưa "phát hiện” ra một địa điểm nào trong thành phố có thể trưng bày 180 bức ảnh (mỗi tỉnh tuyển chọn gởi đến 30 bức).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Võ dân tộc còn gọi là võ ta, nghĩa là võ cổ truyền dân tộc Việt, vốn đã tồn tại lâu đời, đa dạng, khó tra cứu.
TRẦN VĂN DŨNG
Trong suốt quá trình tồn tại của mình, Đồng tôn tương tế phổ đã cố gắng chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho những người hoàng phái, tôn thất. Tinh thần tương thân tương ái từ những năm 20 của thế kỷ XX này đã góp phần lan tỏa giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
NGUYỄN SƠN THỦY
Kể từ năm 1993, Huế được công nhận là di sản văn hóa thế giới, ngành du lịch Thừa Thiên Huế (TT Huế) đã nổi lên như một điểm đến không thể thiếu trong hành trình du lịch Việt Nam của du khách trong và ngoài nước.
PHƯỚC HẢI
Dịch bệnh thời nào cũng xảy ra, không chỉ ở một vùng, một nước một khu vực mà có lúc là toàn cầu, nhất là trong điều kiện giao thương thuận lợi như hiện nay.
THANH TÙNG
Du lịch là hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, các vùng văn hóa, các quốc gia. Người ta đi du lịch là để tìm hiểu những điều kỳ thú mà ở nước mình, vùng đất mình ở không có.
NGUYỄN QUANG HÀ
Kinh Thành Huế được khởi công xây dựng từ thời vua Gia Long (1805) và hoàn thành dưới triều vua Minh Mạng (1832). Ngay từ thời vua Gia Long trở đi, khu vực Kinh Thành Huế là nơi sinh hoạt, làm việc của các quan nha, đồn trú doanh trại quân đội, quan xưởng triều đình, dinh cơ tư thất của tầng lớp quan lại và phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa. Tầng lớp dân chúng chỉ được sinh sống ở vùng ngoại vi, lân cận Kinh Thành.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là loại hình âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách ở kinh đô Huế ngày xưa. Đây là loại hình âm nhạc có tính chất tri âm tri kỷ, cho nên, Ca Huế có hình thức diễn xướng gọi là Ca tri âm1.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Lần đầu tiên ở vùng đất Cố đô, có một tổ chức thuần túy về văn chương, mỹ thuật và thể thao ra đời - đó là Hội Mỹ Hòa, chính thức được công nhận tư cách pháp lý vào ngày 17 tháng 6 năm 1935, đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển văn hóa Huế. Ra đời cách nay 85 năm nhưng Hội Mỹ Hòa đã có quan điểm và phương châm hành động tiến bộ, quy tụ được nhiều tri thức tiêu biểu góp phần gìn giữ di sản văn hóa.