AN PHÚ
Trong không gian yên ắng của ngọn đồi, trên bầu trời không còn ngôi sao nào đêm nay, chỉ có những giọt mưa lả tả, gió và lớp rêu mờ lám xám bên bức tượng.
Minh họa: Nhím
Cơn địa chấn qua đây, và sau trận lụt lớn, những vết lở loét của đất, vết xói của nước sau cơn địa chấn, ở ngọn đồi phát lộ một phế tích vùi dưới lớp đất trên đỉnh được khắc vào đá hai tượng người mặt ngựa, mặt mèo và chiếc vòng màu trắng đục bên hàng cây đã bong gốc. Nhiều đoàn khảo cổ đã về khai đi quật lại để tìm cái gì đó của một triều đại nào đó đã lụi tàn, nhưng chẳng tìm được gì ngoài cái sân đá hai bức tượng không giống ở bất kỳ thời kỳ nào ở đâu trên trái đất này.
Từ khi lũ trẻ ranh leo lên đồi và thấy bóng người, ngựa và mèo đùa vui cùng những tiếng động nghe rờn rợn như suối chảy qua khe đá vổng lên.
Ma. Một đàn ma ngựa, một bầy ma mèo. Tiếng la ó thất thanh vang vọng cả núi, trườn vào bóng đêm, trườn vào gió vi vút đỉnh đồi.
Hai đứa trẻ loay hoay lột từng mảng rêu phủ đầy hoa trên lưng ngựa, con ngựa đá như muốn phi thêm lần nữa, đôi chân cứ như vung vẩy, bay. Đứa bé trai gật gù bên tượng ngựa, nó phủi từng cụm đất bám trên mắt ngựa, mắt của ngàn dặm trùng xa. Nó khẽ thầm, những điều chỉ nó biết. Nó thấy đắng lòng, rưng rưng hai hàng nước mắt, đôi mắt ngựa cũng như rưng theo. Nó khóc. Nó nghe tiếng hí vang của con ngựa hoang đang vung vẩy giữa lưng chừng đồi. Đứa bé trai bất chợt bị hất vung khỏi mặt đất sau một làn gió, như vừa bị một cái đuôi ngựa vung ngang mặt. Đứa bé gái tưng tửng, không buồn, không vui. Nó nhìn hai tượng mèo ngựa, chép miệng: “Lạ, có bao giờ ai lại đúc tượng mèo và ngựa với nhau, gần nhau nhưng chẳng nhúc nhích được”. Nó nhìn vào đôi mắt mèo, mắt của loài đi đêm bị đất bám đục, nó la thất thanh rồi kêu váng đầu, thân hình rã rời như muôn kiếp về báo, rã rời. Gáy đứa bé gái rờn rợn rùng một nhịp thật mạnh, một làn móng vuốt qua. Đứa bé trai ôm nó vào lòng. Những giọt nước mắt đứa bé gái rơi xuống đất, đám đất ướt nhàu một vệt, mắt tượng mèo trong veo đăm nhìn nó. Đôi mắt nhắm dần lại, đứa bé gái như thấy mèo vừa về và nghe tiếng kêu vang vọng bên tai, một âm thanh xoáy vòng vòng vào thẳm sâu vỉa tầng não bộ. Bàn tay của bé gái vục đỏ mấy dấu móng, một cái giật tay lùi lại, đầu quay theo vòng chập chùng đồi.
Đôi tình nhân đến bên đồi, họ thắp nén nhang cầu nguyện, người con trai lẩm bẩm khấn: “Lạy ngài cho chúng con…”. Người con gái cũng lẩm bẩm, hai mắt nhìn về xa xăm. Nó nhắm mắt, nhếch môi và nở một nụ cười ngạo nghễ. Tiếng cười giòn tan vỡ vụn cả không gian. Chợt nó im bặt lại và khấn cầu như người con trai. Người con trai chợt nhiên nghe nó gào thảm thiết. A, đau... ngựa, mèo, đau… Người con gái phát hiện ra người đi cùng nó im lặng thì nó lại đau, người kia vui cười, thì nó vui và lâng lâng. Lạ. Một luồng gió vút qua tung bay bụi mù, người con trai và người con gái dim mắt, họ thấy bóng mèo và ngựa vụt qua và hình ảnh đôi tượng người mặt ngựa và mèo, hình ảnh tượng phát lộ từ lần hai đứa trẻ dắt nhau lên đồi. Bàn tay hai người kéo nhau vào, giãn ra rồi kéo vào trong vùng sâu của một màu đen thẳm. Người con gái buông tay, người con trai buông tay. Họ lại nghe âm thanh kỳ lạ lao vào nhau, lao vào giữa lồng ngực. Đôi bàn tay nắm vào nhau, người con trai và người con gái nghe âm núi vừng vựng dậy cơn địa chấn kéo hút đôi tượng ngựa mèo nhau.
Đôi tình nhân là lứa trẻ con đầu tiên được sanh ra ở hai ngôi làng heo hút nằm sâu ở vùng đồi. Xen vào nhau những mái lá lợp bằng cây rừng và những cây gỗ lồi gốc được chôn làm cột, mỗi ngôi nhà có một kiểu dựng khác nhau. Hai đứa trẻ được sanh ra cách nhau ba năm. Đứa bé trai được sanh vào rạng sáng, sau một trận mưa lớn có năm đường lở của lũ quét ngang dãy núi xa, trong ngôi nhà ở làng nằm sâu dưới vực dốc triền đồi, làng Âm. Ba năm sau, đứa bé thứ hai của làng chào đời vào đêm đầy gió trong ngôi làng Dương nằm trên cao của ngọn đồi. Đêm đó người ta nghe có tiếng hí, nhịp rung của vó ngựa lao vào đêm đặc quánh trên ngọn đồi. Ầm, nhịp lao của ngựa xuống đồi và một tiếng khóc vang lên trong ngôi nhà có cái cây thân bị cứa như đã từng là nơi dùng để cột dây. Ngôi làng bắt đầu có sự thay đổi từ khi có đứa bé thứ hai chào đời. Đêm đêm người ta nghe trên đồi có tiếng vó ngựa lao đi và tiếng hí vang, tiếng mèo kêu rờn rợn vào vực thẳm. Hai âm thanh từ hai hướng lao vào nhau và vỡ ra khi chạm được vào nhau ngay giữa đỉnh đồi. Sau một hồi âm thanh nhẹ dần lại, hai con vật như đã quấn vào nhau. Những âm thanh dội xuống đêm đêm làm ngôi làng càng trở nên hiu hắt, rờn rợn. Sau những chuỗi ngày đó người ta thường thấy bóng mèo ngựa vờn nhau ở đỉnh đồi. Những đứa con trai của hai làng được sanh ra sau đôi trai gái ấy như được gắn trong mình đôi móng vuốt của mèo, dẻo dai của núi và thích đi hoang như mèo. Những đứa con gái lớn lên đều có tính nghênh ngang hoang hoang như ngựa. Điều lạ, trai gái trong cùng một làng chẳng bao giờ lấy được nhau, cưới nhau về thì sinh bệnh mà đi. Con gái làng Dương phải đi lấy chồng xa mới sống được. Con trai làng Âm phải đi làm ăn xa mới thành đạt, mới có hy vọng vinh quy trở về.
Hai ngôi làng im ắng nằm sâu trong đồi chẳng ai ngó tới, chẳng ai biết. Từ khi câu chuyện trai gái hai làng yêu nhau chẳng bao giờ đến được với nhau, đôi tình nhân nào dắt nhau lên đồi cũng phải chịu cảnh ly tán, tan vỡ như bọt nước và từ sau trận địa chấn người muôn nơi kéo nhau về làng đồi Dương - Âm. Nhiều gia đình không muốn cho con cái lấy nhau cũng đã bày trò đưa con lên đồi mèo ngựa làm lễ, tình yêu vỡ vụn. Lời nguyền ngày càng được thắt chặt và đầy trên ngọn đồi.
Cơn gió vuốt qua hai bức tượng, đầu ngựa lởm chởm sợi lông bờm tung tóe, con mèo bắt đầu kêu gọi tiếng của đồng loại nó. Chẳng có ai nghe, chỉ con ngựa ngóng tai mà dường như không chấp nhận những âm thanh đó. Nó vểnh tai, ngóng cổ nghe âm thanh lạ. Nó cúi xuống mỉm cười một nụ đầy mãn nguyện. Tiếng gào của mèo nhỏ dần, nhỏ dần chỉ vừa đủ cho ngựa nghe. Núi chuyển và rung lên bần bật. Chùm râu mèo vểnh lên bên cái mỏm ngựa dài màu nâu đỏ, rung rung. Cái nền lún xuống bên hai bức tượng. Hai gò má gấp vào nhau, mèo ngựa. Mỗi khi có trận địa chấn, vệt nứt ở giữa đồi lún xuống, quả đồi áp lại, bức tượng hai con ngựa mèo nghiêng vào nhau, chụm lại. Cơn địa chấn cũng làm rời ra hai bức tượng khi hai bên sườn đồi nghiêng ra, đôi ngựa mèo lại cách trở. Mỗi khi mưa gió ở giữa đồi người ta thường nghe tiếng rầm rập như đôi ngựa mèo đang đục khoét để cố gần rút dần khoảng cách.
Vào đêm to gió lớn, một người lạ bị mưa lũ ngăn lối, lạc đường trú chân dưới hốc cây cổ thụ trên đồi. Đêm ấy, người đàn ông lạ vụt chạy mấy lần vì run sợ, mắt vừa nhắm lại là nhìn thấy đôi mèo ngựa vờn nhau và hợp sức chống lại một con báo. Con báo tấn công mèo, đôi chân con ngựa nâu tung vó, con báo khụy chân. Con báo quay lại tấn công ngựa, con mèo vồ vào đôi mắt báo, máu từ hai mắt báo chảy xuống thành dòng suối đỏ. Con báo bị mù lại về gào thét muốn nuốt chửng đôi mèo ngựa. Con báo đi bằng hai tai và chiếc mũi thính, nó thấy rõ mồn một từng con đường, dấu chân và cả vết lông ngựa mèo. Con báo lao vào chụp bờm ngựa. Meo, tiếng kêu la giữa khoảng không gian tĩnh mịch, mèo vồ cắn vào mũi báo. Sau tiếng khịt, con mèo quay lại tấn công vào lưng báo. Một tiếng hí vang, hiểu được ý ngựa, mèo lao nhanh ra, một cú đá hậu mạnh khiến con báo ngã nhào trên đỉnh dốc xuống vực. Ầm. Tiếng hú cuối cùng đời báo. Con ngựa liếm từng sợi lông mèo trong hơi thở ngắn. Meo, một tiếng kêu nhảy cẩng lên lưng ngựa. Con mèo đã ngồi trên lưng ngựa và vuốt ve bờm tóc rối tung của ngựa. Hai cái mõm châu vào nhau. Ngựa mèo cuốn vào nhau, cuồn cuộn như nước lũ, cái dốc oằn èo khi mèo ngựa lăn xuống lưng chừng mềm nát vạt cỏ. Một cơn gió khiến mèo rùng mình trên bờm ngựa. Con ngựa hí vang sau lần liếm mũi khiến mèo, hai mặt mèo ngựa úp vào không gian đêm, tiếng rên rỉ lẫn vào gió... Như bị cào và đá vào người, người đàn ông giật mình tỉnh giấc vụt chạy như điên lao nhanh xuống ngọn đồi đặc quánh cơn mưa đêm ma mị cùng tiếng la ó thất thanh cả vùng đồi.
Trời đổ mưa, một tiếng sét đánh xuống trên quả đồi nẻ hai, ở giữa là hai cái mỏm ngựa mèo châu vào nhau, hai cái đầu cuốn không thả giữa vết nứt của núi. Người ta phát hiện phía sau đuôi của hai con mèo ngựa có một dấu vết kỳ lạ mà chẳng ai hiểu là gì.
Một con mèo ngựa con đứng bên đồi ăn cỏ. Người đời cho rằng nó là sản phẩm của đôi ngựa mèo, vì đầu nó dài như ngựa, đôi mắt sáng, lại có mấy sợi râu mèo. Thân nó mang dáng ngựa. Bờm nó mọc sau gần hai chân. Đuôi ngắn cụt lủn và dong cao như cán cờ. Người ta đặt bẫy bắt nó. Sau nhiều lần mai phục, cuối cùng cũng bắt được. Người ta đem nhốt nó vào kẽ hở giữa hai quả đồi sụp lún. Nó cào cấu suốt mấy chục năm trời và gục dưới kẻ núi.
Tiếng sét đánh xuống đồi, ngựa mèo chết.
Hai bức tượng nằm sát nhau giữa một hố sâu của con mèo ngựa con. Ban đầu nguyên hình của con ngựa và con mèo, nhưng đời sau vì thấy cái tình chi chi thắm thiết hơn đồng loại của họ nên dựng tượng. Hai cái tượng đá hình người mặt ngựa mèo được dựng nên. Theo dân làng đồi loài ngựa mèo vốn khắc nhau, chưa bao giờ ở chung được với nhau. Hai con vật vốn khắc nhau như từ tiền kiếp, đến ai mang tuổi đó cũng khắc nhau tận thẳm sâu trong trí tưởng. Và một biểu tượng của sự xung khắc được dưng nên bên cạnh nhau, chỉ có trời đất, địa chấn mới tách ra và cuốn vào. Chẳng ai hiểu được sự sâu thẳm tượng và chẳng ai hiểu được lời nguyền ở đồi tượng.
Đôi tình nhân khấn nguyện. Lời thì thầm chẳng ai nghe. Nhưng sau mỗi lời khấn đôi trai gái nổi da gà và mắt hoa đỏ. Trên đồi ráng chiều thắm len từng làn cây, rủ vào hơi thở đá. Đôi tình nhân lăn trượt xuống ngọn đồi. Đá sỏi đầy lối mà chẳng ai đau. Trong gió reo áp tai vào vách núi chỉ nghe tiếng rên xiết quằn quại, hổn hển lay phay hoàng hôn tím mờ, đồi núi chập chờn suối khe.
Một đứa con ra đời vào năm ngọ, tháng mão, được đặt tên con theo tên hai con linh vật của loài người, chính xác là của người ở vùng đồi, Đồng Hoang. Đồng Hoang lớn dần từng ngày, nó được cha mẹ kể sự tích về cái tên nó được mang và vận vào mình. Đồng Hoang lên đồi đào bới những ngọn lá thông để tìm vết của lời kể. Chẳng có dấu vết nào để lại chỉ duy là gió, rác lá thông bay theo gió chao đảo xuống đồi. Đồng Hoang đắp lên hai pho tượng những cọng rêu trổ đầy hoa li ti màu trắng đục ngậm sương. Cọng hoa rêu nhỏ và đầu hoa mang hình những con nòi giống, lúc nhúc quanh bãi đá.
Đồng Hoang bỏ làng ra đi vào một ngày đầy gió, trên quãng xa và dưới đồi thong dong là ngôi nhà của Đồng Hoang. Từ khi Đồng Hoang bỏ đi chẳng ai đặt chân đến ngôi nhà của nó. Không ai biết được tung tích của nó. Ngôi nhà như đám cỏ của Đồng Hoang bốc cháy vào một đêm mưa, và người đời đắp một nắm tròn ở đó, tôn thờ là Đồng Hoang như vị thần giữ lửa, giữ lại ngọn lửa trong đêm mưa gió, giữ những cọng hoa rêu màu trắng đục ngậm sương và dài lúc nhúc như khi Đồng Hoang mang lên đặt ở tượng ngựa mèo.
Một chàng thanh niên mặt dài râu vểnh ngược ra hai bên nhếch nhếch mấy sợi, trông giống Đồng Hoang, bước lên đồi với dáng đi ngạo nghễ, chàng chẳng tôn thờ ai, chẳng sợ cái gì tất thảy, tất cả những lý thuyết với chàng đều là rác rưởi, máu me của những giọng đặc khàn không âm vực của tin yêu. “Khấn nguyện cầu khẩn để được gì mà phải khấn nguyện” - Đầu chàng trai nghĩ xa hơn thế nhưng miệng thốt lên những lời méo mó dù biết mình chưa am tường, và vì thói chửi đổng lâu ngày thành quen. Chàng trai đâu phải chỉ hay chửi đổng, đôi lúc ngọt ngào đến tận răng mê người khác tê dại. Cái miệng ngắn hơn cái mỏ nhưng đôi lúc cái mỏ của chàng dài hơn cái miệng. Thốc thốc chửi bới ỏm tỏi, thốc thốc ru ngủ bao nhiêu cái đầu lạnh.
Chàng xuống dòng suối máu, soi mặt qua bóng nước, thấy mình mặt dài như ngựa và có mấy sợi râu mèo bám riết trên khóe miệng. Chạy vội vã lên đồi, chàng quỳ xuống khấn và lạy liên hồi. Rờ tay lên mặt thấy nhẵn nhụi, chàng trai vội chạy ra khỏi ngọn đồi, vùn vụt lao đi như tên. Một khoảng xa của thời gian chạy, chàng ngoái đầu lại và bắt đầu trổ những ngón chửi, “mèo ngựa cũng chỉ là tượng, ta đây chẳng sợ...” - Chàng gào trong chiều ráng hồng buông trên nương rẫy. Chàng luôn miệng chửi nhưng tay và chân run lên khi biết mình chẳng rõ, nên thờ cúng, thật thà hay lừa dối, giả trá. Chàng rơi xuống vực thẳm đầy người trung thực đang đấu nhau để sinh tồn. Chàng to hơn đám người đó vì chỉ mình chàng là giả trá. Đám người bắt đầu học chàng những điều giả trá theo châm ngôn của chàng, “sống thật như các người thì có mà chết, cần gì phải đánh nhau, lừa phỉnh nhau đi”. Những người thật thà xây một ngôi miếu và mời chàng vào để họ lạy sống. Đám người bắt đầu bái lạy chàng, nhờ chàng mà bao nhiêu người biết được thế nào là sự sống. Từ khi lên ngồi ở miếu, chàng bắt đầu thị uy bằng những câu văng tục. Chàng chửi đôi ngựa mèo “cần gì mà phải yêu đến chết, yêu mà chết thì còn gì, được gì”... Suốt ngày từ câu mở đến câu kết miệng chàng luôn nói về đôi tượng ngựa mèo. Trong đầu chàng không thoát ra được, chàng ghét đôi tượng vì mặt mình mang dáng của hai khuôn mặt ngựa mèo ghép lại mà không ai gọi chàng tiếng nào, khấn nguyện chàng như đôi tượng ngựa mèo, chỉ có đám người kia, cũng chẳng là bao, khiến chàng phải thỉnh lạy để thay đổi thành mặt nhẵn nhụi.
Chẳng còn tiếng chửi nào hay tiếng kêu gào khấn nguyện trên đồi, đôi ngựa mèo nhìn nhau bằng mắt đá, đôi mắt của sự thật, nhìn nhau trong tiếng thở dài của gió, tiếng reo của lá. Loài người vẫn tồn tại như thuở nguyên sơ chỉ hai tượng ngựa mèo không biết nói, lặng câm trong chiều sâu thẳm.
Một người lên đồi bới lông tìm vết, nhặt được một sợi dây dài tua tủa và một cái móng thú bị ăn mòn hết nửa. Người đem về để lên chiếc bàn ở giữa gian nhà, hàng ngày ngồi lẩm bẩm khấn: “Lạy tiên tổ cho con được yên bình trong cõi yêu, cho si mê thấu tận tâm can…”. Hương bay nghi ngút, làn khói tản trong gió có hình chiếc bờm ngựa, người tin ngựa về. Nhiều người tụ tập về ngôi nhà, buổi chiều trên bầu trời có đám mây ngũ sắc mang dáng ngựa, những lời tin được chắp cánh.
Từng đoàn người đổ về đồi mèo ngựa, họ nối đuôi nhau đi trong im lặng. Thi thoảng có đôi ba câu của mấy đứa trẻ lảm nhảm “ngựa mèo mà cũng có tình yêu?” Cả trăm đôi mắt hướng về chúng: “Đồ con nít hư hỏng”, “đồ chẳng có niềm tin”, “đồ”… Và đoàn người đã bắt đầu im lặng. Đoàn người lại im lặng tiếp tục đi, không ai còn dám mở miệng nói những câu phạm thánh về mèo và ngựa, không dám chê bai hay bất cứ cái gì, không ai còn soi mói nhau mặt ngựa, thói mèo mả gà đồng. Đoàn người tiếp tục đi, im lặng theo chân lên đỉnh đồi. Những người tham đem theo cả cái bịch to để hứng nước mang về cho gia đình, bạn bè, để uống tăng thêm tình yêu thêm nồng đượm, sức khỏe, giàu có, phát lộc phát tài, phát tình phát yêu. Câu chuyện bắt đầu được thêu dệt thêm xung quanh bức tượng mèo ngựa. Và đến thế hệ nX người ta lại xây thêm ngôi đền lớn trên đỉnh đồi, trên mái đền có hai cái đầu ngựa mèo to tướng, rồi nặn thêm những bức tượng ngựa mèo dát vàng ở trên án thờ. Khói hương nghi ngút trầm mặc, đền mỗi lúc một đông đúc, lúc nhúc người.
Đồi phủ đầy lá thông và cỏ thạch xương bồ triền theo đá men dòng suối bên sườn, đoàn người ngồi lại nhúm lá để sưởi ấm trong đêm linh ở ngôi đền. Mùi hương của lá thông và cỏ thạch xương bồ tươi quyện vào nhau tỏa khắp vùng đồi, đoàn người tỉnh dậy vì sự hưng phấn của lá, đầu óc tỉnh táo. Họ bắt đầu những câu chuyện kể linh thiêng của ngôi đền, tượng người mèo ngựa được thờ cúng ở đây, sự tích ngôi đền. Vị thần mèo ngựa vâng mệnh trời xuống nhân gian để bảo vệ tình yêu cho vùng đất này, nếu biết thờ cúng sẽ được phò hộ… câu chuyện cứ thế dài ra.
Lá phủ đầy bức tượng ngựa mèo trên ngọn đồi. Thời gian vùi lấp đi khoảng trống bằng những nắm đất, mưa dần vùi hai bức tượng. Hai cái đầu tượng trơ trên mặt đất cùng cơn xoáy của thời gian. Hai khuôn mặt mèo ngựa chớp tia nhìn mắt đá về phía ngôi đền lớn phủ kín ngọn núi đầy người. Nhiều người đổ về trên ngôi đền, họ đi trong im lặng. Chẳng ai biết về hai bức tượng ngựa mèo, họ chỉ được nghe qua những câu chuyện với nhiều phiên bản.
Đôi tình nhân lặng chìm theo câu chuyện, những nhịp di xuống triền đồi. Đồi phủ đầy mưa. Cơn địa chấn đi qua đây, sụp lún đã vỡ ra. Đêm ánh lên những vệt trắng xẹt qua, hơi thở lạnh của đá thắm vào đôi tình nhân hoang lạnh cuộn đôi tượng ngựa mèo. Ánh đỏ chớp giữa đêm quặn xiết, lô nhô những câu chuyện ngờ vực. Họ lăn xoáy vòng chiều ngược thời gian làng đồi. Lá cây và đất bám thắm vào da thịt. Đôi tình nhân gieo loài rêu đa mang trổ những cọng hoa ngậm sương mang hình những con nòi giống trên đồi tượng. Vết nhăn của đất bắt đầu lở dần ra vòng xoay tít mù.
Đêm đêm, tiếng ngựa hí và tiếng kêu của mèo trườn vào sườn đồi cỏ cây rung lên những thanh âm ma mị lay phay đám hoa rêu buốt gáy làng Dương - Âm.
A.P
(TCSH336/02-2017)
NGUYỄN TRƯỜNG Nơi hầm tối là nơi sáng nhất (Thơ Dương Hương Ly)
TRẦN THUỲ MAINăm nay mùa đông lạnh hơn hẳn mọi năm. Gió cao nguyên cứ tràn qua, tràn qua từng đợt, những bông quỳ chấp chới vàng như sóng. Quỳnh bảo tôi: Gió ở đây một đi không trở lại, khác ở Huế. Gió từ sông Hương thổi lên là gió rất đa mang, thổi tà áo bay dùng dằng, như trong câu hát ngày xưa "Gió bay từ muôn phía...".
HẢI THITôi lớn lên ở một ngôi nhà nhỏ ven sông. Con sông nhỏ chảy qua một vùng quê hẻo lánh. Nhà tôi và nhà Khan đối diện nhau trên dòng trôi quê mùa ấy, chỉ có điều nhà tôi thì quay mặt ra sông, còn nhà Khan thì quay lưng ra sông, chính vì thế mà thuở nhỏ, mỗi lần tắm sông cười đùa ầm ỉ, tôi hay bị ba tôi rầy la nhiều hơn, vì ba tôi chỉ cần ngồi trên nhà đưa mắt là thấy ngay tôi đang trèo lên những bè lục bình để làm công chúa, còn ba Khan thì chỉ trông thấy Khan ném bùn đất vào cô công chúa kỳ khôi mỗi khi ông có việc phải ra đằng sau bếp.
NGUYỄN VIỆT HÀThư viện, nơi mà tôi sẽ tả kỹ, là một nơi tôi đã nhớ và bị nhớ rất lâu. Không phải ở đó tôi đã lần đầu yêu và lần đầu hôn. Tôi nhớ nó vì có một truyện kỳ dị, cái truyện đó rồi sẽ đẩy tôi suýt nữa trở thành một thứ bải hoải rẻ rách.
XUÂN ĐÀITôi làm đơn xin thôi việc, dù biết làm như vậy là phá vỡ hợp đồng đã ký kết với công ty. Tôi phải bồi hoàn. Là nhân viên kiểm toán, tôi không thể tiếp tục làm theo sự chỉ đạo của sếp, cộng tác với doanh nghiệp, đồng lõa với doanh nghiệp, sáng tác ra những con số ma để đối phó với thanh tra. Có tờ báo đã giễu cợt việc làm này là quân trộm cắp cộng tác với quân siêu trộm cắp, có lẽ nhà nước nên lập thêm công ty kiểm toán của kiểm toán.
NGUYỄN CẨM HƯƠNGBước ra khỏi lớp học ngoại ngữ anh bỗng thấy đầu óc quay cuồng như muốn ngã. Dắt được chiếc xe đạp địa hình ra khỏi trung tâm, anh cố gắng đạp một cách khó nhọc trên đường phố.
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNNgười ta thường nói xem mặt đặt tên, nhưng điều này lại không đúng với thượng tá Kha. Nhìn bề ngoài, ai cũng nghĩ ông là người khô khan, thật ra ông lại là người rất đa cảm.
NGUYỄN THẾ TƯỜNGChấp me?Che muống! / Chấp me? Cuống sắc! / Chấp me? Sắc cạnh? / Chấp me? Hạnh bầu! / Chấp me? Hầu nhảy/Ăn cơm ai? Ăn cơm cha!Uống nước ai? Uống nước mạ!Hú ...Con mau về kẻo quạ tha đi!
HUỲNH THẠCH THẢO- Lành, về bảo bố mày ăn nhậu vừa vừa thôi, đừng như mấy ông mới ngấp nghé vào cấp xã đã phởn, bia ôm gái giếc có ngày...Tôi vừa vào đến cổng đã nghe tiếng mẹ sang sảng với con Lành, đứa con cậu út ở quê. Chưa hết, bà còn thêm hồi nữa nhưng nhỏ hơn, có lẽ nghe tiếng cửa mở bên ngoài.
NGUYỄN TRƯỜNGChiều xuống. Lúc mặt trời sắp lặn sau dãy núi phía tây cũng là lúc người ta thấy ông già xóm Chùa thường mon men tới thả câu ở cái bến sông này.
MÃN ĐƯỜNG HỒNGMùa Xuân lững thững về. Anh cũng lững thững đi ra phố chợ. Hai bàn tay trơ trọi của anh đút sâu vào hai túi quần rỗng trống buồn tênh. Anh mỉm cười thong dong bước đi, hòa vào dòng người nhôn nhao tất tả.
HỒNG NHUNói chính xác là chị dâu. Chính xác hơn, chị dâu thứ của vợ tôi. Thông thường những trường hợp như thế này, trong nhà em út chẳng ai gọi đầy đủ là chị dâu cả, mà chỉ là chị thôi. Ấy là chị Kim.
TRẦN DUY PHIÊN1. Chuông điện thoại reo phải lúc tôi đang tiếp ông tổ trưởng dân phố. Biết tôi ở nhà một mình, ông nói gọn mấy câu rồi từ biệt. Ba chân bốn cẳng chạy như nước rút, tôi mới với được tới máy.
LÊ ĐỨC QUANGMột buổi sáng sớm mùa xuân, bầu trời trong xanh thăm thẳm. Anh nắng vàng vừa rải đều khắp nơi. Gió thổi nhẹ, mơn man vào da thịt con người ta, thật mát mẻ dễ chịu làm sao. Dọc đường phố, cuối năm rồi, dòng người trở nên đông đúc và nhộn nhịp, kẻ thì lo mua sắm áo quần mới, người thì lo bánh mứt, kẻ thì mua những chậu hoa, cây cảnh, trang trí nhà cửa của mình sao cho thật đẹp. Mọi người ai cũng hối hả, vui mừng đón năm mới. Riêng lão xích lô, vẫn công việc bình thường như mọi ngày: sáng ăn qua quýt ổ bánh mì xong rồi đạp xích lô đến ngã ba gần sân ga, chờ những chuyến tàu về, mặt cố gắng hớn hở, tươi cười, đón mời khách.
NGUYỄN VĂN NINHTôi được cơ quan tố tụng chỉ định làm luật sư cho một bị can.Tôi xin kể ra đây, hơi dài dòng một chút, không phải bị cáo mà là cha tôi. Trong cuộc đời làm luật sư, cha tôi luôn thích nhất câu: Thưa quí tòa! Thân chủ tôi hoàn toàn vô tội! Cha tôi muốn tôi sau này mỗi khi đứng trước toà đều nói câu như vậy.
QUẾ HƯƠNG 1. Chị đi qua, tẻ nhạt và cũ kỹ như cái áo đề mốt thơm mùi long não lấy từ hòm gỗ ủ hương kỷ niệm. Khu cư dân tôi ở thì mới toanh, chưa tròn mười. Cơ ngơi phó giám đốc xí nghiệp gỗ sực nức mùi rừng.
PHAN VĂN LỢILTS: Cuộc làm người, khó thay! Dân tộc nào cũng sáng tạo cho mình một ĐỊA NGỤC để răn dạy con người không nguôi hướng đến cái CHÂN - THIỆN - MỸ.Nhuốm màu sắc của Liêu trai chí dị và Việt điện u linh..., câu chuyện là một phần của cuộc đời đầy ám ảnh. Vừa cuốn hút thương cảm với cái nhìn nghiêm khắc lột trần bản chất đời sống, vừa hoang mang đặt ra câu hỏi về ý nghĩa sống đích thực của con người.
(tiếp theo và hết)Chuyến du ngoạn địa ngục đã để lại trong tâm trí ông Thai một ấn tượng hãi hùng. Thật khủng khiếp nếu phải chịu cực hình rồi bị đày xuống đó muôn kiếp. Phải tìm cách tự cứu mình chứ chả lẽ chịu bó tay?
HOÀNG NHẬT TUYÊNI. Chuyện được bắt đầu bằng một quả trứng, thoạt nghe cứ tưởng chuyện cổ tích nhưng nghe rồi mới rõ, ấy là chuyện thời nay, và đúng thế, nếu tường thuật theo lối cổ điển, theo tình tự thời gian thì chuyện không thể bắt đầu bằng chỗ nào khác thích hợp hơn là từ một quả trứng- một quả trứng gà.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHọ là đôi bạn thân kể từ thời còn học ở đại học Sorbonne, sau đó, cùng chọn chuyên ngành khảo cổ học. Jabindu, người Népal; Robinson, người Mỹ. Thời trẻ, cả hai đều say mê công việc khô khan và vất vả của mình. Dấu chân của đôi bạn đã dẫm khắp những di tích lịch sử ở hai bờ sông Nile, sông Hằng, Trung Á, Con Đường Tơ Lụa và cả Nam Mỹ...