Đôi điều về thư pháp của Hải Trung

14:26 17/03/2009
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

Khi gửi sách biếu cho các tác giả có thơ trong tập sách quý này, nhà thơ Ngô Minh (Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) mưu sinh ở Huế cũng có sách biếu, đã cho tôi biết Hải Bằng và Hải Trung đều là dân Huế và là hai bố con!. Qua cuốn sách quý này và qua thông tin của nhà thơ Ngô Minh, duyên kỳ ngộ tôi làm quen được với  cả hai nhà thơ Hải Bằng và Hải Trung. Cả 10 tập thơ của Hải Bằng in vào các năm 1980,1988, 1989, 1992, 1993, 1994, 1995, 1996, mà tác giả lận đận phải tự bỏ tiền in sách may mắn tôi cũng có. Hải Bằng còn tặng tôi cả tượng gốc cây đã từng đạt huy chương vàng. Tôi vẫn giữ những kỷ vật này như là một kỷ niệm quý báu về xứ Huế thơ và mộng. Rồi Hải Trung cũng tặng thơ cho tôi, trong đó có cả thơ chữ Hán. Nhưng quý hơn Hải Trung còn tặng tôi bức Thư pháp to như chiếc chiếu một, đó là bài thơ của Lý Bạch:
Bất đáo đông sơn cửu
Tường vi kỳ độ hoa
Bạch vân hoàn tự tán
Minh nguyệt lạc thuỳ gia.
Tôi treo bức thư pháp này ở phòng đọc tranh của mình. Hàng ngày vẫn ngắm nghía “thần thái” của Hải Trung qua bức thư pháp này.

2. Khi Hội Văn nghệ Dân gian tổ chức đi chơi bên đất Trung Quốc, tôi đã tìm được một số sách về thư pháp tiếng Tàu. Tôi đọc và ngẫm nghĩ. Sau đó lại đọc lại suy ngẫm. Ở Hà Nội cũng có một quán bán mì mằn thắn và hủ tiếu ở Đình Ngang. Vì chủ quán có giao du với các nhà thư pháp Hà Nội, cho nên tại đây có treo nhiều bức thư pháp của nhiều nhà thư pháp nổi tiếng Hà Nội. Tôi ngắm nghĩa mãi bức thư pháp viết bài hịch của Lý Thường Kiệt:
quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đằng hành khan thủ bại hư.
Hoặc  câu của Cao Bá Quát  Thập tải luân giao tầm cổ kiếm/Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.
Quán ăn này thậm chí còn treo cả thư pháp của mấy du khách Trung Quốc sang triển lãm thư pháp tại Việt .
Đọc sách và nghiên cứu thư pháp qua mạng Hanosoft.com của nhóm Tống Phước Hải (tongphuochai@yahoo.com). Theo Lê Anh Minh thì cụ Lê Xuân Hoà là thư pháp gia rất nổi tiếng trong ngoài nước.

3. Nhân tố nào tác động đến  thư pháp của Hải Trung:
Theo nhiều nhà nghiên cứu thư pháp, trong đó có Lê Anh Minh cho rằng:  người Tàu cho rằng “Thư pháp cũng là Đạo”, còn người Nhật cho thư pháp là Thư đạo.
Vậy Hải Trung có cho thư pháp là đạo như người Trung Quốc không? hoặc có coi  thư pháp là Thư đạo như người Nhật Bản không?
Theo tôi người ảnh hưởng trực tiếp đến thư pháp của Hải Trung là nhà thơ Hải Bằng. Theo thông tin cập nhật của tôi thì Hải Bằng là thân sinh của Hải Trung. Hải Bằng sinh 3-2-1930 tên thật là Vĩnh Tôn. Quê gốc Huế, lính Trung đoàn 101 Trị Thiên Huế từ 1945. Sau năm 1954 về công tác tại Vụ văn hoá địa phương (Bộ Văn hoá), từ 1959 về công tác tại Ty Văn hoá Quảng Bình. Sau năm 1975 ông về quê ở Huế. Năm 1965 đã được giải thưởng báo Văn nghệ với bài thơ Cồn Cỏ. Năm 1994 ông được giải thưởng của Uỷ ban Trung ương liên hiệp Văn học nghệ thuật với tập thơ “Sóng đôi bờ”. Hải Trung sinh năm 1971, như vậy không thể sinh ra ở Huế. Sau 1975 mới trở về được Huế.

4.
Nói đến thư pháp là nói đến khổ luyện (Lê Anh Minh). Điều này đúng với Hải Trung.  Hiện nay Hải Trung là Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, Hội viên Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế; Hội viên Hội khoa học lịch sử Việt Nam. Hải Trung đã cho in Thần kinh nhị thập cảnh Thơ Thiệu Trị (khảo cứu- soạn chung), Khoa cử và các nhà khoa bảng Triều Nguyễn (khảo cứu, soạn chung), Chơi chữ Hán Nôm những bài thơ độc đáo (khảo cứu) và Hải Trung đã có thơ in riêng (Cho từng ánh lửa và Thơ chữ Hán Không đề & những vần điệu cũ).
Điều quý giá là Hải Trung đã triển lãm Thư pháp Hán Nôm tại Huế (Festival Huế 2000), tại Phú Yên 2003. Uy tín Thư pháp của Hải Trung đã vượt ra khỏi biên giới Việt (Thư pháp của Hải Trung đã được triển lãm tại Bỉ và Pháp).
Hải Trung đã nhận được nhiều giải thưởng, ví dụ như Thơ Tạp chí Nhật Lệ 2000, Thơ Tạp chí Sông Hương 2003, văn học nghệ thuật cố đô (1993-1997), Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam 2003 và giải thưởng thi pháp toàn quốc năm 2003.
Thư pháp Hải Trung đã thành danh không chỉ trong nước và quốc tế. Theo tôi Thư Pháp Hải Trung không chỉ là niềm tự hào cho Huế, mà là niềm tự hào cho người Việt . Nếu bạn đọc Tạp chí Sông Hương có trong tay một bản thư pháp của Hải Trung sẽ thẩm định được những điều tôi viết ở trên.
N.V.H
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LƯƠNG AN

    Như chúng ta biết, từ lâu rồi mối tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát đã được xem như một quan hệ ít có, từ tri ngộ văn chương mà vượt lên sự cách biệt của hai tầng lớp xã hội, sự rẽ đôi của hai khuynh hướng tư tưởng và hai đường đời.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    (Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Lâm tuổi Bính Tý (1936), năm nay đã 76 tuổi, xếp vào hàng “xưa nay hiếm”, nhưng mãi đến nay anh mới đến được Suối tiên tắm (Nxb Văn học, 2012).

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Tôi quen biết Thái Kim Lan cũng đã gần 40 năm nay, một thời gian dài thấm đẫm nhiều kỷ niệm ở đủ mọi phương diện: công việc, thưởng thức nghệ thuật và cả… chuyện đời.

  • VŨ NGỌC PHAN
              Trích hồi ký

    ... Tôi viết Nhà Văn Hiện Đại từ tháng 12-1938 đến cuối tháng giêng 1940 thì xong lượt đầu, tất cả 1650 trang trên giấy học trò.

  • HỒ THẾ HÀ

    “Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
    Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

                             J.Leiba

  • HỒNG NHU

    (Đọc Vùng sâu - tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ - Nxb Hội Nhà văn 1-2012)

  • NGÔ MINH

    Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.

  • ĐẶNG TIẾN

    Kỷ niệm 3 năm ngày mất nhà thơ Tế Hanh (16.7.2009 - 16.7.2012)

  • PHẠM TUẤN KHÁNH - VŨ THANH

    Trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX có một nhà thơ được "thần siêu" coi là "bạn băng tuyết" và được văn nhân Trung Quốc đương thời gọi là "thi hào" - Đó là Đặng Huy Trứ. Sự nghiệp chính trị và văn học của ông vào giai đoạn đó khá nổi tiếng và được đề cao nhưng đến nay vẫn ít người biết đến.

  • NGUYỄN ĐÌNH NIÊN

    (Trích từ “Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử”, Nxb. Southeast Asian Culture and Education (SEACAEF) 2009).

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Mỗi người bước vào cõi thơ ắt hẳn sẽ để lại dấu ấn bằng mỗi phương cách khác nhau. Có người đi vào thơ ca qua những cuộc chiến, có người dùng chính đôi bàn chân mình, hay đôi tay mình, cũng có người bước vào thơ bằng chiếc xe đạp hay xe gắn máy,… nhưng tất cả đều đến với thi ca bằng trái tim.

  • Giải thưởng Nhà nước ra đời từ năm 1996. Đến nay Huế đã có 8 người nhận được giải thưởng danh giá này. Ngoài các nhà văn Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ; Tổng Biên tập đầu tiên của Sông Hương - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nhận Giải thưởng Nhà nước.

  • PHAN NGỌC THU

    Từ sau năm 1975, văn học nước ta nói chung, văn xuôi nói riêng đã có nhiều chuyển biến trong cách tiếp cận với đời sống và ngày càng có xu hướng quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc về chiều sâu của giá trị con người.

  • LÊ HUỲNH LÂM 
    (Đọc tập thơ “Những con chim của bóng tối” của Phạm Tấn Hầu - Nxb Văn học 6/2011) 

    Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
    Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi.

                            Bôrix Patecnax

  • MAI VĂN HOAN

    Trần Nhân Tông sinh năm 1258, lên ngôi năm 1279. Vừa mới lên ngôi, chàng trai 21 tuổi đã phải đối mặt với âm mưu thôn tính nước ta lần thứ hai của giặc Nguyên Mông.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY  

    Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.

  • TRÀNG DƯƠNG

    (Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)

  • NGUYÊN SA(*)

    Từ những ngày còn theo học triết lý tại đại học Sorbonne tôi đã mơ hồ nghĩ mỗi dân tộc bao giờ cũng có một nền triết học riêng. Bởi vì, triết học, trên mọi bình diện nào đó, rút lại, chính là ý thức được hệ thống hóa và thuần túy hóa, là một tổng hợp nhân sinh quan và vũ trụ quan.

  • Có lẽ nếu không có bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ" thì vùng đất xinh xắn kia cũng không nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm đến vậy. Nhắc đến bài thơ này người ta sẽ nhớ ngay đến một mối tình điển hình cho sự nuối tiếc bâng khuâng và dường như nó là phông nền của cái đẹp. Bây giờ người thiếu nữ áo trắng xưa vẫn được sương khói của thôn Vỹ giăng phủ khiến bài thơ bản mệnh của Hàn thi sĩ vẫn miên man trong tâm thức của nhiều thế hệ yêu thơ.