Đọc “Người kinh đô cũ” nghĩ về sự cần thiết đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết

16:25 28/11/2008
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

Với độ dày 576 trang, với chất liệu là những biến động lịch sử trên một vùng đất nổi tiếng như Huế và sự thăng trầm của hàng loạt nhân vật thuộc dòng dõi Hoàng phái đậm đặc chất “Huế” trong hơn nửa thế kỷ (từ 1936 đến 2000), hẳn là tác giả cũng kỳ vọng là tác phẩm sẽ tạo được ấn tượng nào đó trong dư luận - trước hết là ở đất Cố đô - đồng thời góp phần đáp ứng đòi hỏi “tác phẩm lớn có giá trị” mà công chúng lâu nay đã đặt ra trước đội ngũ văn nghệ sĩ.
Về mặt nội dung, đề tài, có thể nói rằng mấy chục năm nay ở Huế chưa có tác phẩm nào ôm trùm một không gian và hiện thực rộng lớn như NKĐC. Nếu tôi không nhầm, vì nhiều nguyên nhân (sẽ nói ở phần sau), NKĐC còn ít độc giả biết đến. Kể ra, hiện nay hầu hết sách văn học - trừ một số ít cuốn có “vấn đề” hoặc được “lăng-xê” đặc biệt - đều có số phận như thế. Vậy nên, trước khi góp đôi lời bàn, xin thử tóm tắt cốt chuyện NKĐC.

Tiểu thuyết chủ yếu lấy Huế làm bối cảnh; có một số chương, tác giả cho nhân vật ra Thanh Hoá và vào Hội An sinh sống. Nhân vật chính là Bửu Toàn, Chánh văn phòng Toà Khâm sứ, con trai của Ân Thuỵ Thái Vương. Vào lúc dân chúng Huế nô nức đón phái đoàn Godart (Chính phủ Bình dân Pháp), thì dinh luỹ phong kiến phủ Vinh Quốc Phong lại bắt đầu lung lay bởi một chuyện... tình: Bửu Toàn ra tòa ly di vợ là Nguyễn Khoa Diệu Anh, do không cưỡng nổi sức cám dỗ của bà Mộc Lan, một doanh nhân tài sắc vẹn toàn, tuy bà nhiều tuổi hơn chàng! Bị cả gia tộc phản đối, Bửu Toàn phải xin đổi vào Hội An sống với Mộc Lan cùng 2 cô con gái riêng xinh đẹp của bà là Hương Thảo và Đoan Thuận. Nhưng chẳng bao lâu, bà Mộc Lan bị bệnh qua đời. Đó cũng là thời kỳ Nhật vào Đông Dương, hất cẳng Pháp và phong trào Việt Minh - thông qua luật sư Kim Hồng Ân, bắt đầu có ảnh hưởng đến gia đình Hoàng phái này.

Ngay trước ngày Cách mạng Tháng Tám nổ ra ở Huế, Ân Thuỵ Thái Vương qua đời. Bửu Tín (em Bửu Toàn) đang là tri phủ Thiệu Hoá (Thanh Hoá) đem vợ và 2 công tử là Vĩnh Cơ, Vĩnh Bảo về Huế chịu tang rồi kẹt lại ở đây để 17 năm sau, đến thời họ Ngô, Vĩnh Cơ bị bắt lính, sau 1975 trở thành nhà báo; còn Vĩnh Bảo hoạt động trong phong trào sinh viên, sau “Tết Mậu Thân” lên rừng và trở thành hoạ sĩ ở Hội Văn nghệ sau ngày đất nước thống nhất; cuộc đời cô út Công Huyền Tôn Nữ Liên Chi mà Bửu Tín gửi lại cho bà vú cũng rất “tiểu thuyết”: cô phải trốn chạy Việt Minh về làm thôn nữ ở quê bà vú, rồi làm công nhân giao thông, may gặp hoạ sĩ Từ Huy từ Hà Nội đi thực tế; năm 1968, anh vào Huế chiến đấu ở Huế, sau 1975 trở về quê cưới Liên Chi và đưa cô về tìm gặp lại gia đình”. Chuyện riêng Bửu Toàn thì còn “tiểu thuyết” hơn: sau khi Mộc Lan chết, ông đưa 2 con riêng của bà về Huế nhưng không chịu sống chung với vợ cũ (Diệu Anh) và trớ trêu thay là Đoan Thuận lại thầm yêu ông; người bố dượng chạy trốn mối tình trong trẻo, nồng cháy mà trái lẽ thường này cho đến đúng ngày Huế chứng kiến Bảo Đại thoái vị thì Đoan Thuận đã chủ động hiến mình cho ông để rồi năm 1948, có vị khách lạ mang đến nhà ông một cô bé con kèm lá thư của Đoan Thuận viết từ chiến khu nhờ ông nuôi dùm. Sau 1975, “cô bé” trở thành giáo sư Đại học và là một cán bộ Tỉnh đoàn... Còn Bửu Toàn, tuy ông từng là Việt Minh, là người ủng hộ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến, nhưng ông không trở thành cán bộ, cũng không là đảng viên...

Không thể kể hết các nhân vật và vô vàn biến cố trong NKĐC. Đan xen với dòng đời các nhân vật, tác giả hầu như không bỏ qua một sự kiện lịch sử nào ở Huế trong hơn sáu thập kỷ đầy biến động cuối thế kỷ 20. Có sự kiện tác giả nêu kèm tên thật nhân vật (như Đặng Văn Việt treo cờ đỏ sao vàng trên cột cờ Ngọ Môn trong Cách mạng Tháng Tám), còn vụ lính Sài Gòn phản chiến năm 1966 do tướng Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, tác giả lại đặt tên viên tướng là Nguyễn Chí Thiện...
Như vậy về nội dung, đề tài, cách bố trí hệ thống nhân vật và các sự kiện lịch sử, NKĐC thể hiện ý đồ xây dựng một tiểu thuyết sử thi (TTST) của tác giả . Đánh giá đúng đắn mức độ thành công và ảnh hưởng của một tác phẩm văn nghệ là một việc không đơn giản - có khi nhận định của một “hội đồng” có uy tín mà vẫn sai lạc - nên cần có thời gian, lắng nghe ý kiến nhiều chiều và đặt nó trong nhiều mối tương quan khác. Do đó, những ý kiến sau đây chỉ là cảm nhận đầu tiên của một cá nhân.

1.- Trong tình hình TTST Việt Nam hầu như chưa có cuốn nào thật sự thành công và công  chúng ngày càng có xu hướng ngại đọc những tập sách dày do thì giờ rỗi đã bị giảm thiểu vì cuộc đua chen trong một cuộc sống quá nhiều biến động hoặc đã sử dụng vào những cách giải trí hữu ích và vô bổ, NKĐC ra đời, với nội dung rộng lớn và phong phú, tư tưởng tốt, chứng tỏ tác giả là một người can đảm, không ngại xông vào một thể loại khó khăn, đòi hỏi rất nhiều tài năng và công phu, đồng thời thể hiện tính kiên định về mặt nghệ thuật. Nếu tôi không nhầm thì tác giả NKĐC hầu như không bận tâm đến vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết mà “thiên hạ” đang bàn tán lâu nay. Nói cho công bằng, “đổi mới nghệ thuật” chưa hẳn đã đảm bảo thành công cho tác phẩm; vì có truyện sáng  tác theo “phương pháp cổ điển” vẫn được người đọc hâm mộ và ngược lại, có không ít sáng  tác cố gắng noi theo những trào lưu nghệ thuật mới nhưng lại thất bại. Ở đây cũng có thể nói ngay là NKĐC có đầy đủ chất liệu để xây dựng một phim truyền hình nhiều tập về Huế gắn với lịch sử cách mạng Việt trong hơn nửa thế kỷ vừa qua.

2.- NKĐC chưa (hoặc không) gây được dư luận, ngoài lý do thị hiếu người đọc thay đổi đã nói ở trên, còn vì những điều dễ thấy: sách chỉ in 700 cuốn, hình như chỉ phát hành ở Hà Nội và một số thành phố lớn, lại không hề được quảng cáo thì rất dễ bị chìm trong thế giới sách hỗn độn đủ loại chất ngất trong các nhà sách. Tôi tự hỏi: Một tiểu thuyết viết về Huế, đậm đặc chất Huế, nhưng liệu người phát hành chuyển về được mấy cuốn cho mấy chục vạn dân Huế? Đó là xét về mặt thị trường, về trách nhiệm của người giới thiệu, cung cấp sản phẩm văn hoá cho công chúng. Trong cơ chế thị  trường, nhất là về lĩnh vực sách, thành ngữ “hữu xạ tự nhiên hương” không hẳn đúng. Mới đây, truyện “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư, sau khi đăng báo “Văn nghệ” lại được báo “Tuổi trẻ” (tờ báo in mỗi kỳ trên 30 vạn bản!) “lăng-xê”, liền trở thành “hiện tượng” chiếm kỷ lục phát hành sách văn học cuối năm 2005.

Tất nhiên Nguyễn Ngọc Tư được nhiều người tìm đọc còn vì giá trị tác phẩm. Trường hợp NKĐC, chưa bàn đến nghệ thuật tiểu thuyết, chỉ riêng về nội dung, có lẽ tác giả chưa làm bạn đọc thoả mãn, chưa đặt ra được những vấn đề người đọc quan tâm. NKĐC tránh được nhược điểm của một số TTST Việt Nam xuất bản trước đây là quá nặng về các sự kiện lịch sử, khiến sự kiện lấn át số phận nhân vật - nhân tố chính tạo nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết -; nhưng hầu như sự kiện nào cũng được nhắc tới mà miêu tả quá sơ sài, nhân vật không có “đất” để thể hiện diễn biến tâm lý như trong NKĐC thì tác phẩm lại trở nên sơ lược. Không ai buộc nhà tiểu thuyết phải chia đều số trang cho từng giai đoạn lịch sử, nhưng khi tác phẩm không chú tâm vào một vấn đề tư tưởng nào, lại chọn cách thể hiện theo trình tự thời gian cổ điển thì việc tác giả bỏ qua hoặc giản lược quá mức nhiều thời đoạn lịch sử quan trọng đã làm cho NKĐC mất sự cân đối, hài hoà. Ví như tác giả đã dành gần 300 trang (trong tổng số 576 trang) cho giai đoạn từ 1940-1945; còn 9 năm kháng chiến chống Pháp chỉ được nhắc qua trong mấy trang ở chương 13. Các giai đoạn sau, kể cả sự kiện chấn động đặc biệt với Huế như “Tết Mậu Thân”, cũng chỉ được thể hiện một cách ngắn gọn, sơ sài. Cũng có thể là tác giả né tránh hoặc thiếu “thực tế”, nên ngại đi sâu miêu tả; nhưng tôi có cảm giác là tác giả đã “ôm” một đề tài quá sức mình - tôi muốn nói đến sức khoẻ theo nghĩa đen vì mấy năm qua Hà Khánh Linh phải đánh vật trên trang viết trong khi bệnh tim luôn đe doạ.

Thực ra, quan trọng hơn sự cân đối về nội dung cũng như việc dành số trang nhiều hay ít cho từng phần của tiểu thuyết là cách đặt vấn đề trong tác phẩm có “trúng” không - nghĩa là tác phẩm có nêu được những vấn đề về lẽ sống, lý tưởng... có ý nghĩa thời đại mà con người luôn phải bận tâm trăn trở trong quá trình hoàn thiện nhân cách, trong tiến trình lịch sử đã diễn ra không? Đây chính là yếu tố làm nên “sức nặng” của tiểu thuyết chứ không phải ở số trang. Nếu tôi không nhầm thì đây cũng là điểm yếu của tiểu thuyết Việt hiện đại. Một số cuốn phần nào có được “sức nặng” tư tưởng thì thường có số trang mỏng (như các tiểu thuyết của Nguyễn Khải) và do tính luận đề trội hơn cá tính và số phận nhân vật, nên tuy người đọc thích thú nhưng độ rung cảm không được lâu bền. Trong NKĐC, có lẽ tác giả phải “quản lý” điều hành một số lượng nhân vật quá đông, lại bận tâm về việc kể chuyện đời của họ, nên gần như đã bỏ qua việc khai thác, thể hiện điều cốt yếu nói trên. Cũng có thể tác giả quan niệm: mình cứ kể chuyện đời, thuật lại các biến cố, nào ông A lấy bà B, đẻ mấy con, cô M lấy tướng Sài Gòn, anh H lên rừng... vân vân và vân vân, ý nghĩa, đạo lý từ đó sẽ toát lên. Kể ra, làm được như vậy cũng tốt, nhưng theo tôi, trong NKĐC, ngoài việc bỏ qua (hoặc chỉ nhắc đến sơ sài) nhiều giai đoạn quan trọng trong lịch sử, tác giả chưa chọn được chuyện đời và các biến cố truyền tải được những vấn đề có sức nặng tư tưởng. Mặt khác, các nhân vật, kể cả nhân vật chính Bửu Toàn, chưa được tác giả đi sâu về mặt tâm lý; trước những biến cố long trời chuyển đất, diễn biến tâm trạng của nhân vật còn đơn giản hoặc bị bỏ qua. Tiểu thuyết kết thúc ở ngày cuối cùng của thế kỷ 20, vậy mà bao nhiêu vấn đề lớn lao đặt ra trước và sau giai đoạn Đổi Mới hầu như không được tác giả đề cập đến.

3.- Có thể đòi hỏi như trên là quá cao đối với một tiểu thuyết, tuy đã dày đến gần 600 trang. Theo quan niệm thông thường về TTST, với dung lượng lớn như NKĐC, nếu muốn thể hiện được đầy đủ thì có khi cần đến hàng ngàn trang như “Chiến tranh và hoà bình” (của L.Tôn-xtôi) hoặc như “Sông Đông êm đềm” (của M. Sô-lô-khốp). Vấn đề đặt ra là: Khi chưa đủ sức viết một bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ như thế hoặc không nên viết những bộ sách dày như thế vì “văn hoá đọc” ngày nay đã khác xưa thì có lẽ phải tính đến những phương cách khác; hoặc là chọn đề tài vừa phải, cô đọng hơn, hoặc là phải nghĩ đến vấn đề đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết. Đây là vấn đề không đơn giản vì bản thân tiểu thuyết chưa bao giờ có một định nghĩa cố định khép kín, nên có thể nói “đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết” là chuyện vô cùng.

Tuy vậy, với những kinh nghiệm và thành tựu của tiểu thuyết trong và ngoài nước, chúng ta cũng bước đầu nhận thấy, ngoài phương pháp cổ điển trần thuật theo trình tự thời gian đã có nhiều phương pháp khác đắc dụng hơn, có thể phản ánh một hiện thực lớn, đặt ra những vấn đề lớn về nhân sinh với số trang vừa phải. Chưa kể đến những thử nghiệm cách tân táo bạo, hay những phương pháp “đồng hiện” và “dòng ý thức”..., chỉ cần khéo sử dụng biện pháp hồi tưởng cũng đã có thể tránh được sự dàn trải mà lại sơ lược kể trên. Thực ra, đổi mới tiểu thuyết không chỉ nhằm giảm độ dày của cuốn sách mà chủ yếu để tiểu thuyết làm tốt nhất chức năng dành riêng cho nó. Để tránh lý luận dông dài, xin dẫn một điều dễ thấy: để kể chuyện đời và các biến cố lịch sử, hồi ký và nhất là phim truyền hình nhiều tập có rất nhiều thuận lợi; nhưng miêu tả chiều sâu tâm lý nhân vật, những mặt chìm, lẩn khuất hoặc huyền nhiệm như vô thức và tâm linh thì có lẽ chỉ tiểu thuyết mới có khả năng diễn tả có hiệu quả.

Bản thân mình, tuy đã viết dăm bảy cuốn tiểu thuyết, cũng đã thử vận dụng một vài cách thể hiện mới, nhưng chưa có gì đáng gọi là thành công và tôi vẫn bị xếp vào loại “cổ điển-bảo thủ”. Nói vậy để muốn thưa rằng: những ý kiến nêu trên hẳn còn nhiều chỗ chưa thấu đáo, thậm chí sai sót, nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh: “đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết là việc cần thiết” thì chắc không sai. Rất mong được tác giả thông cảm và mong được các bậc thức giả chỉ bảo thêm.
                      N.K.P

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • “Có lần tôi hỏi anh Học: Tư tưởng cách mệnh của mày nảy ra từ hồi nào? ​Anh đáp: Từ năm độ lên mười tuổi! Hồi ấy tao còn học chữ Nho ở nhà quê...”.

  • NGÔ MINH

    Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.

  • “Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.

  • Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.

  • Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.

  • Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng  bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.

  • Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)

  • Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.

  • 17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của  Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.

  • Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.

  • Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".

  • LÊ HUỲNH LÂM  

    Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.

  • NGỌC THANH 

    Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.

  • “Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.

  • ĐẶNG HUY GIANG

    Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.

  • Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...

  • BÍCH THU
    (Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)

    Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.