Đậm đà bản sắc Việt Nam trong những vần thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh

10:59 05/02/2010
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

Ảnh: Internet

Gần như đều đặn, từ năm 1946 đến năm 1969, mỗi lần xuân tới, Bác Hồ đã gửi thơ chúc Tết của Người đến với đồng bào cả nước. Vì thế năm nào cũng vậy, các dịp cuối năm, nhất là trong những ngày sắp bước sang năm mới là mọi người nao nức chờ đón thơ chúc Tết của Bác Hồ. Nhưng thật ra chỉ khi đón giao thừa mới được nghe Bác nói trên Đài Tiếng nói Việt Nam chúc tết toàn thể đồng bào. Đầu năm Bác đọc thơ chúc Tết, khi ấy tất cả ý vị trong thơ của Bác mới khởi sắc lên hương, thấm vào lòng, in vào trí nhân dân ta, trở thành một niềm vui đầu xuân đối với mọi lứa tuổi, chan hòa với các niềm tin chung của dân tộc trong ngày Tết. Đây là lời một em thiếu niên:

Nhưng vui nhất bạn ơi
Là đêm ba mươi Tết
Pháo giao thừa nổ đét
Em dậy thức mẹ cha
Và kêu toáng khắp nhà
A... Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta
A! Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta,
A! Bác Hồ đang nói.
(Thơ của Trần Đăng Khoa).

Xưa các cụ nhà ta khai bút đầu năm, làm mấy câu thơ, ghép đôi câu đối, người ta tin rằng có thể bằng vào lời khai bút để đón nhận cả năm đối với người khai bút là hay hoặc dở, vui hoặc buồn.
Trước đây người ta đi chùa xin quẻ, đi bói thơ tiên... Phật ứng quẻ hay Tiên giáng bút thường bằng những bài thơ.

Ngày nay, người ta không làm những việc ấy nữa. Thay vào thơ Tiên, thơ Phật, người ta có thơ Bác Hồ. Bác Hồ khai bút trước toàn dân. Người ta đón đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ, đánh giá về tình hình năm cũ, nhận định về năm mới như thế nào và dặn dò toàn dân phải làm gì năm đó. Người ta bàn bạc trao đổi với nhau từng lời, từng ý trong bài thơ chúc Tết cổ động ngắn gọn của Bác để thấy được những khó khăn, thuận lợi, những triển vọng nhiều ít, gần xa như thế nào.

Người ta truyền cho nhau, năm nay thơ chúc Tết của Bác rất vui, thế là niềm tin náo nức trong mỗi tấm lòng. Hoặc năm nay đọc thơ chúc Tết của Bác dường như tình hình trước mắt có khó khăn, thế là người ta đăm chiêu, suy nghĩ... Nhưng thơ chúc Tết của Bác Hồ luôn luôn đem lại cho mọi người niềm vui, vì lẽ được sự lãnh đạo của Bác Hồ, cách mạng Việt luôn luôn chiến thắng. Suốt từ lúc giao thừa, trong mấy ngày Tết, câu chuyện về bài thơ chúc Tết của Bác Hồ là đầu mối câu chuyện. Và sau đó, trong cả nước, người ta tiếp tục ngẫm nghĩ về những ý tứ của Bác trong bài thơ chúc Tết, cùng đem đối chiếu với hiện thực, và những công việc lần lần được thực hiện, càng thấy những ý tứ của Bác, sự tiên tri, tiên giác của Bác sáng suốt và sâu sắc vô cùng. Thật "thơ Bác - ý dân" đó là câu người ta thường nói và nói như thế thật chí lý.

Lời Bác Hồ và thơ Bác Hồ nói trong phút giao thừa, toàn thể đồng bào trong nước và ở ngoài nước, bầu bạn ta trên khắp thế giới đều lắng nghe. Tiếng của Bác Hồ đến với những người đang vươn mình làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và những người đang đấu tranh bất khuất chống những kẻ thù của dân tộc của giai cấp. Giữa đêm giao thừa các chiến sĩ du kích ở hang Hòn Đất, ở rừng đước u Minh, ở rừng tràm Đồng Tháp Mười, ở núi rừng Tây Nguyên, ở cố đô Huế,... lời chúc Tết của Bác Hồ, và người bị thương quên đau, người bệnh thêm sức mạnh chiến đấu. Trong những trận tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đầu xuân Mậu Thân, các chiến sĩ Giải phóng đã tiến vào tận hang ổ của Mỹ - ngụy để hỏi tội chúng "với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ (thơ Lê anh Xuân).

Thơ chúc Tết Bác Hồ đánh dấu bước đi của thời gian và thúc đẩy thời gian tiến bước, mở rộng đường cho ta đi, rút ngắn những ngày tàn của đế quốc:

Hỡi bốn phương và những chiến trường xa
Xin lắng nghe... phút giao thừa đang chuyển
Bác Hồ gọi, ấy là mùa xuân đến

                        (Thơ của Tố Hữu)

Thơ chúc Tết của Bác Hồ, những vần thơ kỳ diệu đi khắp hai miền đất nước và tìm đến những đứa con đang còn xa Tổ quốc, vì lẽ này hay lẽ khác, vào từng nhà, vào từng tấm lòng và đến đâu thì em nhỏ mừng reo, cụ già trẻ lại, chiến sĩ vững tay súng hơn, công nhân - nông dân đều tay búa, chắc tay cày hơn.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng đem lại cho ta niềm vui đầm ấm. Đối với mọi người trong mỗi hoàn cảnh trên mỗi bước đường của cách mạng, hễ cứ đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ là thấy yên tâm, là thấy phấn khởi, là thấy dạt dào hi vọng là thấy tâm hồn rộn rã hẳn lên, sức lực dồi dào hơn và muốn lao ngay vào công việc.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng là niềm tin son sắt vào hướng đi rực rỡ của cách mạng, tiếng hát vẻ vang của dân tộc. Niềm tin ấy, bởi vì nó là chân lý của trí tuệ, nên rất giản dị, rất cô đúc, rất tự nhiên. Bác Hồ đầu năm 1974 nói:

Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất, độc lập nhất định thành công.
Bước sang năm 1948, Bác nhận định:
Thống nhất chắc chắn được
Độc lập quyết thành công.


Xuân 1949, là mùa xuân tưng bừng khí thế trong bài thơ nổi tiếng của Bác:
Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.


Năm 1950, Bác phát biểu:

Xuân này kháng chiến đã năm xuân
Nhìn xuân kháng chiến càng gần thành công
.

Càng gần thắng lợi, càng lắm khó khăn, nhân dân ta bước sang năm 1952, với lời khẳng định như đinh đóng cột của Bác:

Trường kỳ vì gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm
.

Lời Bác Hồ thường ngắn gọn, biểu lộ một điều đã được suy nghĩ rất chín, không còn có sự hồ nghi nữa. Trên quãng đường dài 8, 9 năm kháng chiến nhân dân ta một lòng theo Bác tới cùng. Mỗi năm là một chặng đường. Qua một chặng đường và bắt đầu một chặng đường mới, một lời nói khẳng định, cái ý chí sắt đá, cái quyết tâm lớn lao, cái thái độ vững vàng của Người dẫn đường quan trọng biết chừng nào! Niềm tin tưởng vào sự thắng lợi của kháng chiến như nhựa mạnh trong thân cây, một lời chúc đầu xuân của Bác Hồ làm cho muôn vàn lộc non nở rộ ở đầu cành, mườn mượt màu xanh hy vọng. Những khi buồm thuận, gió xuôi đã vậy, đến những khi gió to sóng cả, lời truyền lệnh của thuyền trưởng càng cần thiết để cổ vũ tinh thần toàn đồng đội nỗ lực chèo chống đúng phương hướng tiến thẳng tới đích. Bài thơ chúc Tết của Bác Hồ năm 1956, từng chữ, từng lời, tựa như đúc bằng thép già, khỏe chắc lạ thường:

Thân ái mấy lời chúc Tết
Toàn dân đoàn kết một lòng,
Miền Bắc thi đua xây dựng,
Miền Nam giữ vững thành đồng,
Quyết chí bền gan phấn đấu,
Hòa bình, thống nhất thành công./


Toàn bài thơ toát lên một ý chí vững vàng vô cùng. Đặc biệt từ câu thơ: "Miền giữ vững thành đồng" đã thành một khẩu hiệu, một ý nguyện, một lời thề thiêng liêng của cả dân tộc Việt .

Thơ chúc Tết của Bác Hồ mang lại cho chúng ta niềm vui lớn, vì chỉ nghe thơ Bác, đọc thơ Bác là ta có cảm tưởng như được thấy đón Bác vào nhà. Bác Hồ bước vào nhà ta với bước đi khẩn trương, dáng điệu ung dung - thư thái, nét mặt tươi cười - rạng rỡ, lời nói ấm áp - hiền từ và cả một tấm lòng khoan dung, độ lượng như trời cao, biển cả. Đầu xuân, còn gì sung sướng hơn được đón Bác vào nhà, còn gì phấn khởi hơn là được nghe Bác chúc Tết. Bác Hồ bao giờ cũng chúc Tết nhân dân trước - đó là một điều mà dễ thường chỉ riêng lãnh tụ của chúng ta mới có, mới làm.

Thơ Bác ấy là con người Bác: "Đại nhân, đại trí, đại dũng". Thơ chúc Tết của Bác là tâm tình của nhân dân ta, của dân tộc ta: ý nhị, duyên dáng, hồ hởi, sâu sắc, rất kín đáo và rất cởi mở.

Người ta truyền tụng thơ xuân của Bác Hồ, ngân lên, phổ nhạc nghe rộn rã, ấm cúng lạ thường, rất đậm phong vị ngày Tết. Lời nói đó thật là đúng. Ai mà quên được những câu thơ chúc Tết của Bác Hồ trong những năm bắt đầu kế hoạch 5 năm:

Mừng nhà nước ta 15 xuân xanh
Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ
.

Năm 1961:

Mừng năm mới, mừng xuân mới
Mừng Việt , mừng thế giới
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh.


Nhất là năm 1962:

Năm Dần mừng xuân thế giới
Cả năm châu phất phới cờ hồng
Chúc miền Bắc thi đua phấn khởi
Bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong
Chúc miền đấu tranh tiến tới
Sức triệu người hơn sóng biển Đông.


Những hình ảnh "15 xuân xanh", "30 tuổi trẻ", "đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh", "cả năm châu phất phới cờ hồng", "bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong", "sức triệu người hơn sóng biển Đông" sao mà rộn rã, vui tươi, reo vang một sức sống trẻ trung vô tận. Tố Hữu đã nói lên tất cả sự vui say, khỏe khoắn của mỗi tấm lòng khi được giao cảm với tấm lòng yêu đời, yêu người tuyệt vời của Bác Hồ:

Ôi, tiếng hót mê say còn chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi, xuân vui tới mênh mông
Biển vui dâng sống, trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mất trong lời chúc
"Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh"
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh.

                        (Bài ca mùa xuân 1961)

Những năm Tổ quốc bị chia hai, dường như mỗi lần xuân tới, mùa xuân đến với chúng ta chưa thật trọn vẹn. Ngày Tết đáng lẽ cả gia đình phải đoàn tụ thì hình như trong bữa cơm tại gia đình Việt Nam vẫn còn thừa đôi đũa, cái bát của một người con xa chưa về kịp - Miền Nam đi trước về sau!!!...

Ngay cái Tết Độc lập đầu tiên, cái Tết liền sau cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, Tết Bính Tuất 1946, miền Nam đã ăn tết trong lửa đạn rồi! Vì vậy, trong lòng Bác bao giờ cũng dành chỗ ấm áp nhất cho miền . Bao giờ miền cũng có mặt ở đó, ăn tết với Bác. Hơn thế nữa, bao giờ tình thương của Bác cũng đến với miền đến với từng đồng bào miền ... Khi thì an ủi, khi thì khích lệ, khi thì ngợi khen. Tết năm 1946, Bác nhắn gửi miền :

Bao giờ kháng chiến thành công,
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào,
Tết này ta tạm xa nhau,
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy
.

Tết năm 1964, Bác ân cần dặn dò:

Bắc như cội với cành
Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng
Rồi đây thống nhất thành công
Bắc ta lại vui chung một nhà.

Tết năm 1967, Bác khen:

Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.

Đến "Mừng xuân - 1969" là bài thơ mừng xuân cuối cùng của Bác Hồ gửi lại cho toàn dân tộc ta trước khi Người "lên đường theo Tổ tiên" (Tố Hữu). Đây là bài thơ xuân đẹp nhất Người gửi lại cho đời:

Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên!
Chiến sĩ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn
.

Hai câu mở đầu nghe thật êm ái nhẹ nhàng, tràn đầy tình yêu và phấn khởi của nhà thơ, của chiến sĩ và đồng bào cả nước sau thắng lợi vang dội khắp nơi. Song, tiếp những câu sau thì nhịp thơ dồn dập, táo bạo, thần tốc. Động từ "đánh cho" đọc lên nghe thật sảng khoái, sung sướng. "Đánh cho" biểu hiện tính chủ động, khí thế hiên ngang của những người chiến đấu vì lẽ phải. Đọc "đánh cho" của Bác Hồ làm ta nhớ đến lời hịch của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ quyết đánh tan 29 vạn giặc Thanh xâm lược thuở nào.

Đánh cho nó chích luân bất phản!
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn!
Đánh cho sử tri quốc anh hùng chi hữu chủ!


Thật là một sự thú vị! Lời hịch của Quang Trung Nguyễn Huệ được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1789 và thơ "Mừng xuân 1969" của Bác Hồ cũng được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1969. Xa cách nhau 180 năm trời mà Nguyễn Huệ và Hồ chí Minh cả hai vị anh hùng dân tộc đều quyết tâm "đánh cho" đến tên xâm lược cuối cùng phải "cút" khỏi Tổ quốc ta!

Đúng như một nhà báo Mỹ đã cảm nhận: "chủ tịch Hồ chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng chiến bằng những vần thơ...".

Đồng bào miền đón thơ chúc Tết của Bác Hồ với một niềm vui riêng. Người đi xa mà nhận được tin nhà thì rất vui, huống hồ tin nhà lại toàn là tin vui, mà nhận được đúng vào dịp Tết nỗi niềm vui càng lớn. Trong niềm vui ấy, có một cái gì xúc động, vì đồng bào miền Nam có cảm tưởng là Bác Hồ đã vượt núi - băng ngàn - trèo đèo - leo dốc, đến với miền Nam. Chữ viết của Bác đây: còn tươi nét mực; giọng nói của Bác đây: rót vào mọi con tim; tấm lòng của Bác đây: tất cả vì miền ruột thịt; bàn tay của Bác đây: đang vẫy gọi miền ...

Đồng bào miền Nam lắng nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ mà nước mắt lưng tròng. Đồng bào khóc! Đây là những giọt nước mắt vui, một niềm vui đặc biệt chỉ có trong hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh tâm lý của miền mới có được mà thôi.

Hành quân trên quãng đường dài
Lắng nghe lời Bác qua đài chúc xuân
Đây lời Tổ quốc vang ngân
Đây kèn xung trận, giục gần, giục xa
Hào hùng hơn mọi bài ca
Từng lời, từng tiếng thiết tha ngọt ngào
Đêm nay ngồi giữa chiến hào
Bên bầy đạn pháo, ngậm sao trên trời
Gió về rất nhẹ sương rơi
Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương
Vui sao ngày Tết hành quân
Lúc giao thừa tới dừng chân đỉnh đèo
Mừng xuân gió hát thông reo
Câu hò vượt dốc, băng đèo ngân vang
Quây quần mừng đón xuân sang
Lắng nghe như một lời vàng của cha
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta."


Đoạn ca dao do bạn Lê Minh Thủy sưu tầm, phần nào diễn tả khá rõ tâm tư của đồng bào miền đối với thơ chúc Tết của Bác hồ. Ta cũng rất dễ hiểu đồng bào miền Nam khi đã mang trong lòng một niềm vui lớn lao như thế thì rào thép gai nào mà chẳng băng qua, bốt đồn nào mà chẳng san phẳng, sào huyệt kiên cố nào mà chẳng sục vào tận nơi,
tường đồng vách sắt nào mà chẳng đâm thủng.

"Với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ".

Thật vậy! Theo tiếng gọi của Người, cả miền Nam - cả dân tộc Việt Nam đã "tiến lên" ào ào như vũ bão, đã làm nên một "mùa xuân đại thắng - 1975", thực hiện hoài bão thiêng liêng của Người:

"Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn".

H.N.M – N.V.H
(120/02-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...

  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.