Đậm đà bản sắc Việt Nam trong những vần thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh

10:59 05/02/2010
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

Ảnh: Internet

Gần như đều đặn, từ năm 1946 đến năm 1969, mỗi lần xuân tới, Bác Hồ đã gửi thơ chúc Tết của Người đến với đồng bào cả nước. Vì thế năm nào cũng vậy, các dịp cuối năm, nhất là trong những ngày sắp bước sang năm mới là mọi người nao nức chờ đón thơ chúc Tết của Bác Hồ. Nhưng thật ra chỉ khi đón giao thừa mới được nghe Bác nói trên Đài Tiếng nói Việt Nam chúc tết toàn thể đồng bào. Đầu năm Bác đọc thơ chúc Tết, khi ấy tất cả ý vị trong thơ của Bác mới khởi sắc lên hương, thấm vào lòng, in vào trí nhân dân ta, trở thành một niềm vui đầu xuân đối với mọi lứa tuổi, chan hòa với các niềm tin chung của dân tộc trong ngày Tết. Đây là lời một em thiếu niên:

Nhưng vui nhất bạn ơi
Là đêm ba mươi Tết
Pháo giao thừa nổ đét
Em dậy thức mẹ cha
Và kêu toáng khắp nhà
A... Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta
A! Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta,
A! Bác Hồ đang nói.
(Thơ của Trần Đăng Khoa).

Xưa các cụ nhà ta khai bút đầu năm, làm mấy câu thơ, ghép đôi câu đối, người ta tin rằng có thể bằng vào lời khai bút để đón nhận cả năm đối với người khai bút là hay hoặc dở, vui hoặc buồn.
Trước đây người ta đi chùa xin quẻ, đi bói thơ tiên... Phật ứng quẻ hay Tiên giáng bút thường bằng những bài thơ.

Ngày nay, người ta không làm những việc ấy nữa. Thay vào thơ Tiên, thơ Phật, người ta có thơ Bác Hồ. Bác Hồ khai bút trước toàn dân. Người ta đón đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ, đánh giá về tình hình năm cũ, nhận định về năm mới như thế nào và dặn dò toàn dân phải làm gì năm đó. Người ta bàn bạc trao đổi với nhau từng lời, từng ý trong bài thơ chúc Tết cổ động ngắn gọn của Bác để thấy được những khó khăn, thuận lợi, những triển vọng nhiều ít, gần xa như thế nào.

Người ta truyền cho nhau, năm nay thơ chúc Tết của Bác rất vui, thế là niềm tin náo nức trong mỗi tấm lòng. Hoặc năm nay đọc thơ chúc Tết của Bác dường như tình hình trước mắt có khó khăn, thế là người ta đăm chiêu, suy nghĩ... Nhưng thơ chúc Tết của Bác Hồ luôn luôn đem lại cho mọi người niềm vui, vì lẽ được sự lãnh đạo của Bác Hồ, cách mạng Việt luôn luôn chiến thắng. Suốt từ lúc giao thừa, trong mấy ngày Tết, câu chuyện về bài thơ chúc Tết của Bác Hồ là đầu mối câu chuyện. Và sau đó, trong cả nước, người ta tiếp tục ngẫm nghĩ về những ý tứ của Bác trong bài thơ chúc Tết, cùng đem đối chiếu với hiện thực, và những công việc lần lần được thực hiện, càng thấy những ý tứ của Bác, sự tiên tri, tiên giác của Bác sáng suốt và sâu sắc vô cùng. Thật "thơ Bác - ý dân" đó là câu người ta thường nói và nói như thế thật chí lý.

Lời Bác Hồ và thơ Bác Hồ nói trong phút giao thừa, toàn thể đồng bào trong nước và ở ngoài nước, bầu bạn ta trên khắp thế giới đều lắng nghe. Tiếng của Bác Hồ đến với những người đang vươn mình làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và những người đang đấu tranh bất khuất chống những kẻ thù của dân tộc của giai cấp. Giữa đêm giao thừa các chiến sĩ du kích ở hang Hòn Đất, ở rừng đước u Minh, ở rừng tràm Đồng Tháp Mười, ở núi rừng Tây Nguyên, ở cố đô Huế,... lời chúc Tết của Bác Hồ, và người bị thương quên đau, người bệnh thêm sức mạnh chiến đấu. Trong những trận tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đầu xuân Mậu Thân, các chiến sĩ Giải phóng đã tiến vào tận hang ổ của Mỹ - ngụy để hỏi tội chúng "với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ (thơ Lê anh Xuân).

Thơ chúc Tết Bác Hồ đánh dấu bước đi của thời gian và thúc đẩy thời gian tiến bước, mở rộng đường cho ta đi, rút ngắn những ngày tàn của đế quốc:

Hỡi bốn phương và những chiến trường xa
Xin lắng nghe... phút giao thừa đang chuyển
Bác Hồ gọi, ấy là mùa xuân đến

                        (Thơ của Tố Hữu)

Thơ chúc Tết của Bác Hồ, những vần thơ kỳ diệu đi khắp hai miền đất nước và tìm đến những đứa con đang còn xa Tổ quốc, vì lẽ này hay lẽ khác, vào từng nhà, vào từng tấm lòng và đến đâu thì em nhỏ mừng reo, cụ già trẻ lại, chiến sĩ vững tay súng hơn, công nhân - nông dân đều tay búa, chắc tay cày hơn.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng đem lại cho ta niềm vui đầm ấm. Đối với mọi người trong mỗi hoàn cảnh trên mỗi bước đường của cách mạng, hễ cứ đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ là thấy yên tâm, là thấy phấn khởi, là thấy dạt dào hi vọng là thấy tâm hồn rộn rã hẳn lên, sức lực dồi dào hơn và muốn lao ngay vào công việc.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng là niềm tin son sắt vào hướng đi rực rỡ của cách mạng, tiếng hát vẻ vang của dân tộc. Niềm tin ấy, bởi vì nó là chân lý của trí tuệ, nên rất giản dị, rất cô đúc, rất tự nhiên. Bác Hồ đầu năm 1974 nói:

Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất, độc lập nhất định thành công.
Bước sang năm 1948, Bác nhận định:
Thống nhất chắc chắn được
Độc lập quyết thành công.


Xuân 1949, là mùa xuân tưng bừng khí thế trong bài thơ nổi tiếng của Bác:
Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.


Năm 1950, Bác phát biểu:

Xuân này kháng chiến đã năm xuân
Nhìn xuân kháng chiến càng gần thành công
.

Càng gần thắng lợi, càng lắm khó khăn, nhân dân ta bước sang năm 1952, với lời khẳng định như đinh đóng cột của Bác:

Trường kỳ vì gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm
.

Lời Bác Hồ thường ngắn gọn, biểu lộ một điều đã được suy nghĩ rất chín, không còn có sự hồ nghi nữa. Trên quãng đường dài 8, 9 năm kháng chiến nhân dân ta một lòng theo Bác tới cùng. Mỗi năm là một chặng đường. Qua một chặng đường và bắt đầu một chặng đường mới, một lời nói khẳng định, cái ý chí sắt đá, cái quyết tâm lớn lao, cái thái độ vững vàng của Người dẫn đường quan trọng biết chừng nào! Niềm tin tưởng vào sự thắng lợi của kháng chiến như nhựa mạnh trong thân cây, một lời chúc đầu xuân của Bác Hồ làm cho muôn vàn lộc non nở rộ ở đầu cành, mườn mượt màu xanh hy vọng. Những khi buồm thuận, gió xuôi đã vậy, đến những khi gió to sóng cả, lời truyền lệnh của thuyền trưởng càng cần thiết để cổ vũ tinh thần toàn đồng đội nỗ lực chèo chống đúng phương hướng tiến thẳng tới đích. Bài thơ chúc Tết của Bác Hồ năm 1956, từng chữ, từng lời, tựa như đúc bằng thép già, khỏe chắc lạ thường:

Thân ái mấy lời chúc Tết
Toàn dân đoàn kết một lòng,
Miền Bắc thi đua xây dựng,
Miền Nam giữ vững thành đồng,
Quyết chí bền gan phấn đấu,
Hòa bình, thống nhất thành công./


Toàn bài thơ toát lên một ý chí vững vàng vô cùng. Đặc biệt từ câu thơ: "Miền giữ vững thành đồng" đã thành một khẩu hiệu, một ý nguyện, một lời thề thiêng liêng của cả dân tộc Việt .

Thơ chúc Tết của Bác Hồ mang lại cho chúng ta niềm vui lớn, vì chỉ nghe thơ Bác, đọc thơ Bác là ta có cảm tưởng như được thấy đón Bác vào nhà. Bác Hồ bước vào nhà ta với bước đi khẩn trương, dáng điệu ung dung - thư thái, nét mặt tươi cười - rạng rỡ, lời nói ấm áp - hiền từ và cả một tấm lòng khoan dung, độ lượng như trời cao, biển cả. Đầu xuân, còn gì sung sướng hơn được đón Bác vào nhà, còn gì phấn khởi hơn là được nghe Bác chúc Tết. Bác Hồ bao giờ cũng chúc Tết nhân dân trước - đó là một điều mà dễ thường chỉ riêng lãnh tụ của chúng ta mới có, mới làm.

Thơ Bác ấy là con người Bác: "Đại nhân, đại trí, đại dũng". Thơ chúc Tết của Bác là tâm tình của nhân dân ta, của dân tộc ta: ý nhị, duyên dáng, hồ hởi, sâu sắc, rất kín đáo và rất cởi mở.

Người ta truyền tụng thơ xuân của Bác Hồ, ngân lên, phổ nhạc nghe rộn rã, ấm cúng lạ thường, rất đậm phong vị ngày Tết. Lời nói đó thật là đúng. Ai mà quên được những câu thơ chúc Tết của Bác Hồ trong những năm bắt đầu kế hoạch 5 năm:

Mừng nhà nước ta 15 xuân xanh
Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ
.

Năm 1961:

Mừng năm mới, mừng xuân mới
Mừng Việt , mừng thế giới
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh.


Nhất là năm 1962:

Năm Dần mừng xuân thế giới
Cả năm châu phất phới cờ hồng
Chúc miền Bắc thi đua phấn khởi
Bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong
Chúc miền đấu tranh tiến tới
Sức triệu người hơn sóng biển Đông.


Những hình ảnh "15 xuân xanh", "30 tuổi trẻ", "đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh", "cả năm châu phất phới cờ hồng", "bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong", "sức triệu người hơn sóng biển Đông" sao mà rộn rã, vui tươi, reo vang một sức sống trẻ trung vô tận. Tố Hữu đã nói lên tất cả sự vui say, khỏe khoắn của mỗi tấm lòng khi được giao cảm với tấm lòng yêu đời, yêu người tuyệt vời của Bác Hồ:

Ôi, tiếng hót mê say còn chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi, xuân vui tới mênh mông
Biển vui dâng sống, trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mất trong lời chúc
"Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh"
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh.

                        (Bài ca mùa xuân 1961)

Những năm Tổ quốc bị chia hai, dường như mỗi lần xuân tới, mùa xuân đến với chúng ta chưa thật trọn vẹn. Ngày Tết đáng lẽ cả gia đình phải đoàn tụ thì hình như trong bữa cơm tại gia đình Việt Nam vẫn còn thừa đôi đũa, cái bát của một người con xa chưa về kịp - Miền Nam đi trước về sau!!!...

Ngay cái Tết Độc lập đầu tiên, cái Tết liền sau cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, Tết Bính Tuất 1946, miền Nam đã ăn tết trong lửa đạn rồi! Vì vậy, trong lòng Bác bao giờ cũng dành chỗ ấm áp nhất cho miền . Bao giờ miền cũng có mặt ở đó, ăn tết với Bác. Hơn thế nữa, bao giờ tình thương của Bác cũng đến với miền đến với từng đồng bào miền ... Khi thì an ủi, khi thì khích lệ, khi thì ngợi khen. Tết năm 1946, Bác nhắn gửi miền :

Bao giờ kháng chiến thành công,
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào,
Tết này ta tạm xa nhau,
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy
.

Tết năm 1964, Bác ân cần dặn dò:

Bắc như cội với cành
Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng
Rồi đây thống nhất thành công
Bắc ta lại vui chung một nhà.

Tết năm 1967, Bác khen:

Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.

Đến "Mừng xuân - 1969" là bài thơ mừng xuân cuối cùng của Bác Hồ gửi lại cho toàn dân tộc ta trước khi Người "lên đường theo Tổ tiên" (Tố Hữu). Đây là bài thơ xuân đẹp nhất Người gửi lại cho đời:

Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên!
Chiến sĩ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn
.

Hai câu mở đầu nghe thật êm ái nhẹ nhàng, tràn đầy tình yêu và phấn khởi của nhà thơ, của chiến sĩ và đồng bào cả nước sau thắng lợi vang dội khắp nơi. Song, tiếp những câu sau thì nhịp thơ dồn dập, táo bạo, thần tốc. Động từ "đánh cho" đọc lên nghe thật sảng khoái, sung sướng. "Đánh cho" biểu hiện tính chủ động, khí thế hiên ngang của những người chiến đấu vì lẽ phải. Đọc "đánh cho" của Bác Hồ làm ta nhớ đến lời hịch của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ quyết đánh tan 29 vạn giặc Thanh xâm lược thuở nào.

Đánh cho nó chích luân bất phản!
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn!
Đánh cho sử tri quốc anh hùng chi hữu chủ!


Thật là một sự thú vị! Lời hịch của Quang Trung Nguyễn Huệ được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1789 và thơ "Mừng xuân 1969" của Bác Hồ cũng được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1969. Xa cách nhau 180 năm trời mà Nguyễn Huệ và Hồ chí Minh cả hai vị anh hùng dân tộc đều quyết tâm "đánh cho" đến tên xâm lược cuối cùng phải "cút" khỏi Tổ quốc ta!

Đúng như một nhà báo Mỹ đã cảm nhận: "chủ tịch Hồ chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng chiến bằng những vần thơ...".

Đồng bào miền đón thơ chúc Tết của Bác Hồ với một niềm vui riêng. Người đi xa mà nhận được tin nhà thì rất vui, huống hồ tin nhà lại toàn là tin vui, mà nhận được đúng vào dịp Tết nỗi niềm vui càng lớn. Trong niềm vui ấy, có một cái gì xúc động, vì đồng bào miền Nam có cảm tưởng là Bác Hồ đã vượt núi - băng ngàn - trèo đèo - leo dốc, đến với miền Nam. Chữ viết của Bác đây: còn tươi nét mực; giọng nói của Bác đây: rót vào mọi con tim; tấm lòng của Bác đây: tất cả vì miền ruột thịt; bàn tay của Bác đây: đang vẫy gọi miền ...

Đồng bào miền Nam lắng nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ mà nước mắt lưng tròng. Đồng bào khóc! Đây là những giọt nước mắt vui, một niềm vui đặc biệt chỉ có trong hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh tâm lý của miền mới có được mà thôi.

Hành quân trên quãng đường dài
Lắng nghe lời Bác qua đài chúc xuân
Đây lời Tổ quốc vang ngân
Đây kèn xung trận, giục gần, giục xa
Hào hùng hơn mọi bài ca
Từng lời, từng tiếng thiết tha ngọt ngào
Đêm nay ngồi giữa chiến hào
Bên bầy đạn pháo, ngậm sao trên trời
Gió về rất nhẹ sương rơi
Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương
Vui sao ngày Tết hành quân
Lúc giao thừa tới dừng chân đỉnh đèo
Mừng xuân gió hát thông reo
Câu hò vượt dốc, băng đèo ngân vang
Quây quần mừng đón xuân sang
Lắng nghe như một lời vàng của cha
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta."


Đoạn ca dao do bạn Lê Minh Thủy sưu tầm, phần nào diễn tả khá rõ tâm tư của đồng bào miền đối với thơ chúc Tết của Bác hồ. Ta cũng rất dễ hiểu đồng bào miền Nam khi đã mang trong lòng một niềm vui lớn lao như thế thì rào thép gai nào mà chẳng băng qua, bốt đồn nào mà chẳng san phẳng, sào huyệt kiên cố nào mà chẳng sục vào tận nơi,
tường đồng vách sắt nào mà chẳng đâm thủng.

"Với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ".

Thật vậy! Theo tiếng gọi của Người, cả miền Nam - cả dân tộc Việt Nam đã "tiến lên" ào ào như vũ bão, đã làm nên một "mùa xuân đại thắng - 1975", thực hiện hoài bão thiêng liêng của Người:

"Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn".

H.N.M – N.V.H
(120/02-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.