Đậm đà bản sắc Việt Nam trong những vần thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh

10:59 05/02/2010
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

Ảnh: Internet

Gần như đều đặn, từ năm 1946 đến năm 1969, mỗi lần xuân tới, Bác Hồ đã gửi thơ chúc Tết của Người đến với đồng bào cả nước. Vì thế năm nào cũng vậy, các dịp cuối năm, nhất là trong những ngày sắp bước sang năm mới là mọi người nao nức chờ đón thơ chúc Tết của Bác Hồ. Nhưng thật ra chỉ khi đón giao thừa mới được nghe Bác nói trên Đài Tiếng nói Việt Nam chúc tết toàn thể đồng bào. Đầu năm Bác đọc thơ chúc Tết, khi ấy tất cả ý vị trong thơ của Bác mới khởi sắc lên hương, thấm vào lòng, in vào trí nhân dân ta, trở thành một niềm vui đầu xuân đối với mọi lứa tuổi, chan hòa với các niềm tin chung của dân tộc trong ngày Tết. Đây là lời một em thiếu niên:

Nhưng vui nhất bạn ơi
Là đêm ba mươi Tết
Pháo giao thừa nổ đét
Em dậy thức mẹ cha
Và kêu toáng khắp nhà
A... Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta
A! Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta,
A! Bác Hồ đang nói.
(Thơ của Trần Đăng Khoa).

Xưa các cụ nhà ta khai bút đầu năm, làm mấy câu thơ, ghép đôi câu đối, người ta tin rằng có thể bằng vào lời khai bút để đón nhận cả năm đối với người khai bút là hay hoặc dở, vui hoặc buồn.
Trước đây người ta đi chùa xin quẻ, đi bói thơ tiên... Phật ứng quẻ hay Tiên giáng bút thường bằng những bài thơ.

Ngày nay, người ta không làm những việc ấy nữa. Thay vào thơ Tiên, thơ Phật, người ta có thơ Bác Hồ. Bác Hồ khai bút trước toàn dân. Người ta đón đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ, đánh giá về tình hình năm cũ, nhận định về năm mới như thế nào và dặn dò toàn dân phải làm gì năm đó. Người ta bàn bạc trao đổi với nhau từng lời, từng ý trong bài thơ chúc Tết cổ động ngắn gọn của Bác để thấy được những khó khăn, thuận lợi, những triển vọng nhiều ít, gần xa như thế nào.

Người ta truyền cho nhau, năm nay thơ chúc Tết của Bác rất vui, thế là niềm tin náo nức trong mỗi tấm lòng. Hoặc năm nay đọc thơ chúc Tết của Bác dường như tình hình trước mắt có khó khăn, thế là người ta đăm chiêu, suy nghĩ... Nhưng thơ chúc Tết của Bác Hồ luôn luôn đem lại cho mọi người niềm vui, vì lẽ được sự lãnh đạo của Bác Hồ, cách mạng Việt luôn luôn chiến thắng. Suốt từ lúc giao thừa, trong mấy ngày Tết, câu chuyện về bài thơ chúc Tết của Bác Hồ là đầu mối câu chuyện. Và sau đó, trong cả nước, người ta tiếp tục ngẫm nghĩ về những ý tứ của Bác trong bài thơ chúc Tết, cùng đem đối chiếu với hiện thực, và những công việc lần lần được thực hiện, càng thấy những ý tứ của Bác, sự tiên tri, tiên giác của Bác sáng suốt và sâu sắc vô cùng. Thật "thơ Bác - ý dân" đó là câu người ta thường nói và nói như thế thật chí lý.

Lời Bác Hồ và thơ Bác Hồ nói trong phút giao thừa, toàn thể đồng bào trong nước và ở ngoài nước, bầu bạn ta trên khắp thế giới đều lắng nghe. Tiếng của Bác Hồ đến với những người đang vươn mình làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và những người đang đấu tranh bất khuất chống những kẻ thù của dân tộc của giai cấp. Giữa đêm giao thừa các chiến sĩ du kích ở hang Hòn Đất, ở rừng đước u Minh, ở rừng tràm Đồng Tháp Mười, ở núi rừng Tây Nguyên, ở cố đô Huế,... lời chúc Tết của Bác Hồ, và người bị thương quên đau, người bệnh thêm sức mạnh chiến đấu. Trong những trận tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đầu xuân Mậu Thân, các chiến sĩ Giải phóng đã tiến vào tận hang ổ của Mỹ - ngụy để hỏi tội chúng "với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ (thơ Lê anh Xuân).

Thơ chúc Tết Bác Hồ đánh dấu bước đi của thời gian và thúc đẩy thời gian tiến bước, mở rộng đường cho ta đi, rút ngắn những ngày tàn của đế quốc:

Hỡi bốn phương và những chiến trường xa
Xin lắng nghe... phút giao thừa đang chuyển
Bác Hồ gọi, ấy là mùa xuân đến

                        (Thơ của Tố Hữu)

Thơ chúc Tết của Bác Hồ, những vần thơ kỳ diệu đi khắp hai miền đất nước và tìm đến những đứa con đang còn xa Tổ quốc, vì lẽ này hay lẽ khác, vào từng nhà, vào từng tấm lòng và đến đâu thì em nhỏ mừng reo, cụ già trẻ lại, chiến sĩ vững tay súng hơn, công nhân - nông dân đều tay búa, chắc tay cày hơn.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng đem lại cho ta niềm vui đầm ấm. Đối với mọi người trong mỗi hoàn cảnh trên mỗi bước đường của cách mạng, hễ cứ đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ là thấy yên tâm, là thấy phấn khởi, là thấy dạt dào hi vọng là thấy tâm hồn rộn rã hẳn lên, sức lực dồi dào hơn và muốn lao ngay vào công việc.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng là niềm tin son sắt vào hướng đi rực rỡ của cách mạng, tiếng hát vẻ vang của dân tộc. Niềm tin ấy, bởi vì nó là chân lý của trí tuệ, nên rất giản dị, rất cô đúc, rất tự nhiên. Bác Hồ đầu năm 1974 nói:

Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất, độc lập nhất định thành công.
Bước sang năm 1948, Bác nhận định:
Thống nhất chắc chắn được
Độc lập quyết thành công.


Xuân 1949, là mùa xuân tưng bừng khí thế trong bài thơ nổi tiếng của Bác:
Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.


Năm 1950, Bác phát biểu:

Xuân này kháng chiến đã năm xuân
Nhìn xuân kháng chiến càng gần thành công
.

Càng gần thắng lợi, càng lắm khó khăn, nhân dân ta bước sang năm 1952, với lời khẳng định như đinh đóng cột của Bác:

Trường kỳ vì gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm
.

Lời Bác Hồ thường ngắn gọn, biểu lộ một điều đã được suy nghĩ rất chín, không còn có sự hồ nghi nữa. Trên quãng đường dài 8, 9 năm kháng chiến nhân dân ta một lòng theo Bác tới cùng. Mỗi năm là một chặng đường. Qua một chặng đường và bắt đầu một chặng đường mới, một lời nói khẳng định, cái ý chí sắt đá, cái quyết tâm lớn lao, cái thái độ vững vàng của Người dẫn đường quan trọng biết chừng nào! Niềm tin tưởng vào sự thắng lợi của kháng chiến như nhựa mạnh trong thân cây, một lời chúc đầu xuân của Bác Hồ làm cho muôn vàn lộc non nở rộ ở đầu cành, mườn mượt màu xanh hy vọng. Những khi buồm thuận, gió xuôi đã vậy, đến những khi gió to sóng cả, lời truyền lệnh của thuyền trưởng càng cần thiết để cổ vũ tinh thần toàn đồng đội nỗ lực chèo chống đúng phương hướng tiến thẳng tới đích. Bài thơ chúc Tết của Bác Hồ năm 1956, từng chữ, từng lời, tựa như đúc bằng thép già, khỏe chắc lạ thường:

Thân ái mấy lời chúc Tết
Toàn dân đoàn kết một lòng,
Miền Bắc thi đua xây dựng,
Miền Nam giữ vững thành đồng,
Quyết chí bền gan phấn đấu,
Hòa bình, thống nhất thành công./


Toàn bài thơ toát lên một ý chí vững vàng vô cùng. Đặc biệt từ câu thơ: "Miền giữ vững thành đồng" đã thành một khẩu hiệu, một ý nguyện, một lời thề thiêng liêng của cả dân tộc Việt .

Thơ chúc Tết của Bác Hồ mang lại cho chúng ta niềm vui lớn, vì chỉ nghe thơ Bác, đọc thơ Bác là ta có cảm tưởng như được thấy đón Bác vào nhà. Bác Hồ bước vào nhà ta với bước đi khẩn trương, dáng điệu ung dung - thư thái, nét mặt tươi cười - rạng rỡ, lời nói ấm áp - hiền từ và cả một tấm lòng khoan dung, độ lượng như trời cao, biển cả. Đầu xuân, còn gì sung sướng hơn được đón Bác vào nhà, còn gì phấn khởi hơn là được nghe Bác chúc Tết. Bác Hồ bao giờ cũng chúc Tết nhân dân trước - đó là một điều mà dễ thường chỉ riêng lãnh tụ của chúng ta mới có, mới làm.

Thơ Bác ấy là con người Bác: "Đại nhân, đại trí, đại dũng". Thơ chúc Tết của Bác là tâm tình của nhân dân ta, của dân tộc ta: ý nhị, duyên dáng, hồ hởi, sâu sắc, rất kín đáo và rất cởi mở.

Người ta truyền tụng thơ xuân của Bác Hồ, ngân lên, phổ nhạc nghe rộn rã, ấm cúng lạ thường, rất đậm phong vị ngày Tết. Lời nói đó thật là đúng. Ai mà quên được những câu thơ chúc Tết của Bác Hồ trong những năm bắt đầu kế hoạch 5 năm:

Mừng nhà nước ta 15 xuân xanh
Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ
.

Năm 1961:

Mừng năm mới, mừng xuân mới
Mừng Việt , mừng thế giới
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh.


Nhất là năm 1962:

Năm Dần mừng xuân thế giới
Cả năm châu phất phới cờ hồng
Chúc miền Bắc thi đua phấn khởi
Bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong
Chúc miền đấu tranh tiến tới
Sức triệu người hơn sóng biển Đông.


Những hình ảnh "15 xuân xanh", "30 tuổi trẻ", "đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh", "cả năm châu phất phới cờ hồng", "bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong", "sức triệu người hơn sóng biển Đông" sao mà rộn rã, vui tươi, reo vang một sức sống trẻ trung vô tận. Tố Hữu đã nói lên tất cả sự vui say, khỏe khoắn của mỗi tấm lòng khi được giao cảm với tấm lòng yêu đời, yêu người tuyệt vời của Bác Hồ:

Ôi, tiếng hót mê say còn chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi, xuân vui tới mênh mông
Biển vui dâng sống, trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mất trong lời chúc
"Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh"
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh.

                        (Bài ca mùa xuân 1961)

Những năm Tổ quốc bị chia hai, dường như mỗi lần xuân tới, mùa xuân đến với chúng ta chưa thật trọn vẹn. Ngày Tết đáng lẽ cả gia đình phải đoàn tụ thì hình như trong bữa cơm tại gia đình Việt Nam vẫn còn thừa đôi đũa, cái bát của một người con xa chưa về kịp - Miền Nam đi trước về sau!!!...

Ngay cái Tết Độc lập đầu tiên, cái Tết liền sau cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, Tết Bính Tuất 1946, miền Nam đã ăn tết trong lửa đạn rồi! Vì vậy, trong lòng Bác bao giờ cũng dành chỗ ấm áp nhất cho miền . Bao giờ miền cũng có mặt ở đó, ăn tết với Bác. Hơn thế nữa, bao giờ tình thương của Bác cũng đến với miền đến với từng đồng bào miền ... Khi thì an ủi, khi thì khích lệ, khi thì ngợi khen. Tết năm 1946, Bác nhắn gửi miền :

Bao giờ kháng chiến thành công,
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào,
Tết này ta tạm xa nhau,
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy
.

Tết năm 1964, Bác ân cần dặn dò:

Bắc như cội với cành
Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng
Rồi đây thống nhất thành công
Bắc ta lại vui chung một nhà.

Tết năm 1967, Bác khen:

Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.

Đến "Mừng xuân - 1969" là bài thơ mừng xuân cuối cùng của Bác Hồ gửi lại cho toàn dân tộc ta trước khi Người "lên đường theo Tổ tiên" (Tố Hữu). Đây là bài thơ xuân đẹp nhất Người gửi lại cho đời:

Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên!
Chiến sĩ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn
.

Hai câu mở đầu nghe thật êm ái nhẹ nhàng, tràn đầy tình yêu và phấn khởi của nhà thơ, của chiến sĩ và đồng bào cả nước sau thắng lợi vang dội khắp nơi. Song, tiếp những câu sau thì nhịp thơ dồn dập, táo bạo, thần tốc. Động từ "đánh cho" đọc lên nghe thật sảng khoái, sung sướng. "Đánh cho" biểu hiện tính chủ động, khí thế hiên ngang của những người chiến đấu vì lẽ phải. Đọc "đánh cho" của Bác Hồ làm ta nhớ đến lời hịch của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ quyết đánh tan 29 vạn giặc Thanh xâm lược thuở nào.

Đánh cho nó chích luân bất phản!
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn!
Đánh cho sử tri quốc anh hùng chi hữu chủ!


Thật là một sự thú vị! Lời hịch của Quang Trung Nguyễn Huệ được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1789 và thơ "Mừng xuân 1969" của Bác Hồ cũng được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1969. Xa cách nhau 180 năm trời mà Nguyễn Huệ và Hồ chí Minh cả hai vị anh hùng dân tộc đều quyết tâm "đánh cho" đến tên xâm lược cuối cùng phải "cút" khỏi Tổ quốc ta!

Đúng như một nhà báo Mỹ đã cảm nhận: "chủ tịch Hồ chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng chiến bằng những vần thơ...".

Đồng bào miền đón thơ chúc Tết của Bác Hồ với một niềm vui riêng. Người đi xa mà nhận được tin nhà thì rất vui, huống hồ tin nhà lại toàn là tin vui, mà nhận được đúng vào dịp Tết nỗi niềm vui càng lớn. Trong niềm vui ấy, có một cái gì xúc động, vì đồng bào miền Nam có cảm tưởng là Bác Hồ đã vượt núi - băng ngàn - trèo đèo - leo dốc, đến với miền Nam. Chữ viết của Bác đây: còn tươi nét mực; giọng nói của Bác đây: rót vào mọi con tim; tấm lòng của Bác đây: tất cả vì miền ruột thịt; bàn tay của Bác đây: đang vẫy gọi miền ...

Đồng bào miền Nam lắng nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ mà nước mắt lưng tròng. Đồng bào khóc! Đây là những giọt nước mắt vui, một niềm vui đặc biệt chỉ có trong hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh tâm lý của miền mới có được mà thôi.

Hành quân trên quãng đường dài
Lắng nghe lời Bác qua đài chúc xuân
Đây lời Tổ quốc vang ngân
Đây kèn xung trận, giục gần, giục xa
Hào hùng hơn mọi bài ca
Từng lời, từng tiếng thiết tha ngọt ngào
Đêm nay ngồi giữa chiến hào
Bên bầy đạn pháo, ngậm sao trên trời
Gió về rất nhẹ sương rơi
Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương
Vui sao ngày Tết hành quân
Lúc giao thừa tới dừng chân đỉnh đèo
Mừng xuân gió hát thông reo
Câu hò vượt dốc, băng đèo ngân vang
Quây quần mừng đón xuân sang
Lắng nghe như một lời vàng của cha
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta."


Đoạn ca dao do bạn Lê Minh Thủy sưu tầm, phần nào diễn tả khá rõ tâm tư của đồng bào miền đối với thơ chúc Tết của Bác hồ. Ta cũng rất dễ hiểu đồng bào miền Nam khi đã mang trong lòng một niềm vui lớn lao như thế thì rào thép gai nào mà chẳng băng qua, bốt đồn nào mà chẳng san phẳng, sào huyệt kiên cố nào mà chẳng sục vào tận nơi,
tường đồng vách sắt nào mà chẳng đâm thủng.

"Với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ".

Thật vậy! Theo tiếng gọi của Người, cả miền Nam - cả dân tộc Việt Nam đã "tiến lên" ào ào như vũ bão, đã làm nên một "mùa xuân đại thắng - 1975", thực hiện hoài bão thiêng liêng của Người:

"Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn".

H.N.M – N.V.H
(120/02-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.