Cuộc hành hương bên bờ xa vắng...

15:56 11/08/2008
VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

Đọc “Quỷ trong trăng”, cảm giác đầu tiên khởi lên và lặp đi lặp lại phía sau bề mặt con chữ là cuộc tìm kiếm miên man của Trần Thuỳ Mai giữa mê lộ thơ, hệt như những ám ảnh đã mộng du và quyến rũ bước chân nhân vật Lan trong một truyện ngắn của chị đội trên đầu chiếc mâm vàng sóng sánh nước để đi đến bờ vực tình yêu. Đó phải chăng chính là hình tượng tựa như một thi ảnh mà nhà văn nữ đã gửi gắm vào đấy tất cả nhữung khát khao, băn khoăn và tự vấn, kiếm tìm. Giữa những ám ảnh các con đường, Trần Thuỳ Mai đã không làm một “trò chơi vô tăm tích” vốn ảnh hưởng tinh thần của F. Nietzsche để đến với cái đích mịt mù không tưởng như “Mê lộ” của Phạm Thị Hoài mà chị lại gắn kết và neo giữ chính tâm hồn mình trên những giác độ tình yêu rồi soi xét nó từ nhiều điểm chiếu. Có lúc e ấp như mối tình thoát tục làm nên một “Thương nhớ Hoàng Lan”, có khi bao dung và chịu đựng đến phi lý những ảo ảnh hạnh phúc vốn đã không hề tồn tại như “Trăng nơi đáy giếng”, nhiều lúc lại đi đến tận cùng nghiệt ngã, phủ phàng dẫu chỉ là qua một “Nốt ruồi son” nghịch kiếp... Dù ở điểm chiếu nào, truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai cũng đắm chìm trong tiềm thức miên man, vô hình chung hình thành những ý niệm để tác giả vén lên luồng sáng mong manh, đi sâu vào những ngõ ngách nhỏ nhoi, tìm ra đời sống hơn là đời sống, nhận thức ra tia sáng hằng cửu, bất biến trong chân lý tình yêu như Octavio Paz đã từng quan niệm. Luồng sáng mong manh ấy cũng là thế giới của cái đẹp dễ vỡ. Cái đẹp vốn hư ảo như nốt phù trầm tiếng thở dài: “Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian” (Thương nhớ hoàng lan). Càng mong manh, hư ảo, dường như người viết càng khát khao chiêm vọng hướng đến. Chị soi chiếu các nhân vật của mình bằng cảm thức dịu dàng, sâu thẳm qua những mảnh vỡ buồn của My, Khánh, Hạnh, người con gái xứ sở mặt trời hay người đàn bà cô đơn trên đỉnh Ngựa Trắng... Rồi giấu tiếng âm âm như làn sóng sục sôi trong đáy nước, những suy tư về cái đẹp của nhà văn càng ám ảnh, càng nén chặt: “ Sông trôi về biển là sông mất. Nhưng sông không chảy thì còn gì là sông” (Khói trên sông Hương). Đấy là đối thoại của nghịch lý, đối thoại của ánh sáng và bóng tối, của cái chết và mưa rơi trong “Giã từ vũ khí” (E. Hemingway).
Giọng văn nhẹ nhàng, thì thầm như những dòng mưa từ từ thấm sâu vào lòng người đọc, siêu thoát khỏi giới hạn chữ nghĩa bằng thứ ngôn ngữ tự nhiên và những chi tiết nhỏ nhặt đời thường. Điều đáng tiếc là, dường như nhà văn đã dừng lại quá sớm bên bờ giới hạn tỉnh táo, chưa đẩy những chi tiết tưởng chừng nhỏ nhặt kia đến sâu thẳm của hiện thực. Nếu quyết liệt đến vậy mà vẫn giữ được ánh sáng mong manh huyền hoặc của những nghi vấn và chiêm nghiệm, chắc chắn thế giới của tập truyện sẽ còn lung linh, tan chảy trong tâm hồn người đọc nhiều hơn nữa.
Bằng ý niệm thuần khiết của trí tưởng tượng và những thổn thức mê đắm, “Quỷ trong trăng” chính là sự tạo lập một thế giới mà ở đó, phận người vẫn còn những khắc khoải cô đơn như một ám ảnh trong trang Kinh Tân ước. Với sự nhạy cảm hiếm thấy, Trần Thuỳ Mai đã làm một cuộc hành hương của linh hồn phù du bên bến bờ xa vắng, đi tìm luồng sáng mong manh cho những khao khát của mình.
Huế 2001
V.T
(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Trong Lời giới thiệu tác phẩm mới xuất bản của Phan Trung Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng, tác giả của Ăn xà bông(*) đã rẽ ra được một lối đi cho riêng mình như kết quả của nỗ lực lao động nghệ thuật.

  • PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.

  • THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)

  • KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

  • LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.

  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)