Của César xin trả lại cho César

15:43 26/06/2013

THÁI DOÃN HIỂU

Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.

Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu - Ảnh: internet

Tên cai ngục đọc và rất mê truyện ngắn của M.Gorky. Vốn sính văn chương nhưng bất tài, y vào tận ngục thất kỳ kèo với nhà văn viết cho hắn mỗi tuần một truyện, đổi lại hắn sẽ thả tù nhà văn sớm. Từ đó, gã cai ngục Phêôđo xuất hiện như một nhà văn thực thụ trên văn đàn. Y lấy quyền lực đổi lấy danh hão, còn M.Goky đổi truyện lấy tự do. Cả hai bên đối tác đều có lợi, chẳng ai mất mát gì. Về sau, Gorky đã lấy lại những truyện ngắn ấy xếp vào tài sản của mình. Đó là chuyện chính danh trong học thuật. Còn ngày nay ở ta thì lại khác cơ đấy.

1. Ai là tác thật của bộ sách Việt Nam Thi nhân tiền chiến?

Khi đặt chân đến định cư ở đất Sài Sòn vào cuối năm 1976, tôi liền hối hả tiếp xúc với văn học miền Nam. Có một bộ sách sau cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân là bộ Việt Nam Thi nhân tiền chiến của Nguyễn Hữu Trọng và Nguyễn Tấn Long là đáng chú ý. Bộ sách chia làm ba quyển dày thượng, trung, hạ khổ lớn đầy ắp những tư liệu. Sau giải phóng sách có in lại. Các nhà nghiên cứu và sinh viên khoa văn rất cần quyển sách này để nghiên cứu hiểu bổ sung cho giai đoạn văn học Tiền chiến.

Một lần đến nhà in số 6, ngay ở tầng trệt dưới căn hộ tôi ở trên đường Trần Hưng Đạo để in quyển sách Lời vàng, tôi may mắn gặp tác giả Nguyễn Tấn Long. Ông Long người tầm thước, to béo không ra dáng một học giả mà có dáng một thương gia. Tôi lân la hỏi thẳng tác giả Việt Nam Thi nhân Tiền chiến về một số vấn đề học thuật của bộ sách thì ông tác giả này trả lời ú ớ chuyệch choạc, tỏ ra ông không phải là người viết bộ sách đó. Về sau tôi được anh Toản người cùng làm ở nhà in này cho biết Nguyễn Hữu Trọng viết sách còn Nguyễn Tấn Long là chủ nhà in. Do thỏa thuận về mặt tiền nong nào đó nên cả hai quy ước đứng tên chung. Nhà tôi - cô Hoàng Liên - có một cô học trò là con gái Nguyễn Hữu Trọng. Cô sinh viên đem tặng cho cô giáo của mình quyển thượng của bộ sách xuất bản lần đầu, có triện son của tác giả và lời trang tặng đầy ân nghĩa cho ông bà ngoại để tỏ lòng tri ân được họ nuôi dạy nên người. Từ đó tôi cứ đinh ninh là nhà giáo Nguyễn Hữu Trọng là tác thật của bộ sách. Thế rồi, bẵng đi một thời gian dài, khi ông Trọng đã mất, những lần Thi nhân Việt Nam Tiền chiến tái bản chỉ còn lại một người đứng tên là Nguyễn Tấn Long. Tôi vào hiệu sách cầm bộ sách trên tay mà ngậm ngùi. Người viết bị truất tên, người không viết có quyền thế tên vào đó vì có tiền, có tiền mua tiên cũng được?

2. Ai là dịch giả bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị?

Bản dịch lưu hành phổ biến bài thơ nổi tiếng Tỳ bà hành được xem là hay nghiêng ngửa với nguyên tác của Bạch Cư Dị là Phan Huy Vịnh thực ra là bản dịch của Phan Huy Thực (chú Phan Huy Vịnh).

3. Ai là tác giả của Nhất sinh đê thủ bái mai hoa?

Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa


(Mười năm lặn lội tìm cây kiếm cổ
Một đời chỉ biết lạy hoa mai).

Theo Như Thanh nhật ký năm Mậu Thìn (1868) vua Tự Đức cử đoàn sứ bộ sang triều cống nhà Mãn Thanh: cầm đầu là chánh sứ Lê Tuấn (đỗ Hoàng Giáp năm 1853); phó sứ là Nguyễn Tử Giản đậu Hoàng Giáp; phó sứ thứ 2 là cử nhân Hoàng Tịnh.

Hành trình của sứ bộ theo lối xưa từ ải Nam Quan đến Yên Kinh. Sau 125 ngày họ đến huyện thành Hà Dương tỉnh Hồ Bắc, ở đó đoàn Sứ bộ Việt Nam được viên tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối cho chánh sứ Lê Tuấn:

Hữu khẩu tu ngôn thiên hạ sự
Kháng hoài bất nhượng cổ chi nhân


(Có miệng nên nói việc thiên hạ
Nghị lực không chịu nhường người xưa).

Câu đối tặng Nguyễn Tử Giản:

Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa


(Mười năm chọn bạn như tìm thanh kiếm cổ
Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai)

Câu đối tặng Hoàng Tịnh:

Truyền thần cổ hữu Lý Tư Huấn
Vấn tự kim vô Dương Tử Vân


(Truyền thần xưa có Lý Tư Huấn
Hỏi chữ nay không Dương Tử Vân).

Sự kiện trên được chép trong “Yên thiều bút lục” của Nguyễn Tử Giản (1823 - 1890) sách viết tay của thư viện khoa học Trung ương, số A.852 tờ 18a- b; Cứ liệu trên đã được các học giả Tảo Trang và Hoa Bằng đưa ra trên tạp chí văn học số 2 - Hà Nội năm 1972, trang 61 và 64).

Câu đối “... bái mai hoa” của Ngải Tuấn Mỹ tặng Nguyễn Tử Giản là vào năm 1868, trước đó 14 năm, Cao Bá Quát được đồn thổi là đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (Giáp Dần 1854)... phải chăng người đời do quá yêu Cao Chu Thần nên cứ thích tương truyền câu “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của ông như một giai thoại để đời? Thậm chí người ta còn “sáng tác” ra cả… thủ bút của Cao Bá Quát in đầy trên các sách báo và cả làm câu đối nơi nhà thờ Cao Bá Quát ở Phú Thị (Theo Nguyễn Khôi).

4. Ai là dịch giả của bài Phong Kiều dạ bạc?

Bài thơ Phong Kiều dạ bạc là một giai thoại kỳ thú tôi đã kể trên báo Văn Nghệ, sau này được đưa vào bộ Giai thoại Nhà văn thế giới. Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến qua bản dịch: “Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều”.

Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.


Dịch phẩm trên toàn bích, rút được cái thần hồn của nguyên tác. Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn Hùng (1961), Thơ Đường tập II đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003, nhà Kiều học Nguyễn Quảng Tuân phát hiện ra trong di sản văn hóa của Đinh Nhật Thận (1841) đỗ tiến sĩ thời vua Minh Mạng (bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả Thu dạ lữ hoài ngâm. Thời gian Cao Bá Quát bị nạn, Đinh Nhật Thận bị giam lỏng ở Huế... Một đêm ngồi trong thư phòng bên bờ sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong Kiều dạ bạc... Ông hạ bút:

Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cố nhân
Hương thủy ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tấn giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn San ám nhận khách thuyền cánh phi.


Đại ý là: Trong phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kẻ phường chài từ đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi, đoán chúng là thuyền khách bên chùa Hàn San (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ...

Cái độc đáo của Đinh Nhật Thận ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu Đế (ở Huế) “Dạ văn diệu đế chung thanh” không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều dạ bạc, nguyên gốc là:

Quạ kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
.

So nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”, chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” - lá phong rụng làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận “khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử. Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi là toàn bích được. (Theo Nguyễn Khôi)

6. Cho đến tận bây giờ, các sách lịch sử, truyện, kịch bản sân khấu đều chép chồng bà Trưng Trắc tên là Thi Sách! Các dịch giả sách Việt sử thông giám cương mục chú rằng “Trong Thủy Kinh chú, quyển 37 tờ 62 chép chồng bà Trưng Trắc là Thi…” Chữ “sách” có nghĩa là: hỏi, dạm, lấy. Sách Hậu Hán thư là văn bản cổ nhất chép thế này, nguyên văn “Con trai lạc tướng Châu Diên là Thi sách (lấy) con gái lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc”. Sự lầm lỗi này cần phải đính chính lại. Ông ấy tên là Thi thôi.

Những cái sai tương tự như thế, ta có thể dẫn ra vô thiên lủng:

Tên tuổi của Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi, cho đến nay vẫn tồn tại cách viết là Mạc Đĩnh Chi. Đỉnh là cái vạc - tượng trưng cho sự phú quý, trong câu “Miếng chung đỉnh mất rồi lại có” (Nguyễn Gia Thiều). Chi: vun bón, chăm sóc, ủng hộ cho cái vạc chứa đầy của cải. Đỉnh chứ không phải là đĩnh (thoi bạc); Chi (có bộ tài gãy đặt trước chữ chi là cành) không phải chi vật lượng từ trong văn ngôn (Hán cổ), tương đương với chữ đích (tưa âm Bắc Kinh) trong Hán ngữ. Các nhà Hán Nôm Việt Nam cũng viết sai nốt chữ Chi này khi chuyển sang Hán tự.

Lại nữa, tên Nho sĩ Lương Nhữ Hộc được viết thành Lương Như Học chình ình trên bảng hiệu tên đường ở quận Năm. Tên Ngự sử đời Trần Đoàn Nhữ Hài viết trên bảng tên đường Đoàn Như Hài ở quận Tư, Tp. Hồ Chí Minh là những tên tuổi mà các vị hữu trách cần phải sửa ngay, không nên làm ngơ mãi.

Còn nữa, tên tác giả Truyền kỳ mạn lụcNguyễn Dư, viết sách báo tôi đã đính chính khắp nơi, người ta vẫn cứ ngoan cố chép là Nguyễn Dữ. Nghĩ xem, chẳng ai đặt cho mình cái tên xấu (dữ dằn) như thế cả.

Một người viết sai, cả nước, đời này qua đời nọ đọc sai là vậy.

7. Ai là tác giả Hỡi cô tát nước bên đàng?

Tháng 12/1934 Bàng Bá Lân xuất bản thi phẩm đầu tay Tiếng thông reo do Nxb. Thanh Hoa Tùng Thư ở Hà Nội in, trong đó có bài: “Trăng Quê”.

Trời cao, mây bạc, trăng tròn
Đê than hiu quạnh, tre buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo von
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?

                        (Tập Tiếng thông reo)

Hai câu kết thần bút của bài Trăng quê ở trên của thi sĩ Bàng Bá Lân, lâu nay đã được dân gian hóa thành ca dao.

8. Ai là tác giả bài ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà?

Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà giầm tương
Nhớ ai giãi nắng giầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.


Lần ấy (1990), ngồi soạn những tư liệu để viết chương sách về Á Nam Trần Tuấn Khải trong bộ sách Giai thoại Nhà văn Việt Nam tôi đã phát hiện ra bài ca dao trên là của Á Nam Trần Tuấn Khải.

Vâng, để giữ sự công bằng, những gì của César nên đem trả lại cho César!

T.D.H
(SDB9/6-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?