THÁI DOÃN HIỂU
Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.
Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu - Ảnh: internet
Tên cai ngục đọc và rất mê truyện ngắn của M.Gorky. Vốn sính văn chương nhưng bất tài, y vào tận ngục thất kỳ kèo với nhà văn viết cho hắn mỗi tuần một truyện, đổi lại hắn sẽ thả tù nhà văn sớm. Từ đó, gã cai ngục Phêôđo xuất hiện như một nhà văn thực thụ trên văn đàn. Y lấy quyền lực đổi lấy danh hão, còn M.Goky đổi truyện lấy tự do. Cả hai bên đối tác đều có lợi, chẳng ai mất mát gì. Về sau, Gorky đã lấy lại những truyện ngắn ấy xếp vào tài sản của mình. Đó là chuyện chính danh trong học thuật. Còn ngày nay ở ta thì lại khác cơ đấy.
1. Ai là tác thật của bộ sách Việt Nam Thi nhân tiền chiến?
Khi đặt chân đến định cư ở đất Sài Sòn vào cuối năm 1976, tôi liền hối hả tiếp xúc với văn học miền Nam. Có một bộ sách sau cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân là bộ Việt Nam Thi nhân tiền chiến của Nguyễn Hữu Trọng và Nguyễn Tấn Long là đáng chú ý. Bộ sách chia làm ba quyển dày thượng, trung, hạ khổ lớn đầy ắp những tư liệu. Sau giải phóng sách có in lại. Các nhà nghiên cứu và sinh viên khoa văn rất cần quyển sách này để nghiên cứu hiểu bổ sung cho giai đoạn văn học Tiền chiến.
Một lần đến nhà in số 6, ngay ở tầng trệt dưới căn hộ tôi ở trên đường Trần Hưng Đạo để in quyển sách Lời vàng, tôi may mắn gặp tác giả Nguyễn Tấn Long. Ông Long người tầm thước, to béo không ra dáng một học giả mà có dáng một thương gia. Tôi lân la hỏi thẳng tác giả Việt Nam Thi nhân Tiền chiến về một số vấn đề học thuật của bộ sách thì ông tác giả này trả lời ú ớ chuyệch choạc, tỏ ra ông không phải là người viết bộ sách đó. Về sau tôi được anh Toản người cùng làm ở nhà in này cho biết Nguyễn Hữu Trọng viết sách còn Nguyễn Tấn Long là chủ nhà in. Do thỏa thuận về mặt tiền nong nào đó nên cả hai quy ước đứng tên chung. Nhà tôi - cô Hoàng Liên - có một cô học trò là con gái Nguyễn Hữu Trọng. Cô sinh viên đem tặng cho cô giáo của mình quyển thượng của bộ sách xuất bản lần đầu, có triện son của tác giả và lời trang tặng đầy ân nghĩa cho ông bà ngoại để tỏ lòng tri ân được họ nuôi dạy nên người. Từ đó tôi cứ đinh ninh là nhà giáo Nguyễn Hữu Trọng là tác thật của bộ sách. Thế rồi, bẵng đi một thời gian dài, khi ông Trọng đã mất, những lần Thi nhân Việt Nam Tiền chiến tái bản chỉ còn lại một người đứng tên là Nguyễn Tấn Long. Tôi vào hiệu sách cầm bộ sách trên tay mà ngậm ngùi. Người viết bị truất tên, người không viết có quyền thế tên vào đó vì có tiền, có tiền mua tiên cũng được?
2. Ai là dịch giả bài thơ Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị?
Bản dịch lưu hành phổ biến bài thơ nổi tiếng Tỳ bà hành được xem là hay nghiêng ngửa với nguyên tác của Bạch Cư Dị là Phan Huy Vịnh thực ra là bản dịch của Phan Huy Thực (chú Phan Huy Vịnh).
3. Ai là tác giả của Nhất sinh đê thủ bái mai hoa?
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm lặn lội tìm cây kiếm cổ
Một đời chỉ biết lạy hoa mai).
Theo Như Thanh nhật ký năm Mậu Thìn (1868) vua Tự Đức cử đoàn sứ bộ sang triều cống nhà Mãn Thanh: cầm đầu là chánh sứ Lê Tuấn (đỗ Hoàng Giáp năm 1853); phó sứ là Nguyễn Tử Giản đậu Hoàng Giáp; phó sứ thứ 2 là cử nhân Hoàng Tịnh.
Hành trình của sứ bộ theo lối xưa từ ải Nam Quan đến Yên Kinh. Sau 125 ngày họ đến huyện thành Hà Dương tỉnh Hồ Bắc, ở đó đoàn Sứ bộ Việt Nam được viên tri phủ Hán Dương là Ngải Tuấn Mỹ đón tiếp và tặng đôi câu đối cho chánh sứ Lê Tuấn:
Hữu khẩu tu ngôn thiên hạ sự
Kháng hoài bất nhượng cổ chi nhân
(Có miệng nên nói việc thiên hạ
Nghị lực không chịu nhường người xưa).
Câu đối tặng Nguyễn Tử Giản:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Mười năm chọn bạn như tìm thanh kiếm cổ
Một đời chỉ biết cúi đầu lạy hoa mai)
Câu đối tặng Hoàng Tịnh:
Truyền thần cổ hữu Lý Tư Huấn
Vấn tự kim vô Dương Tử Vân
(Truyền thần xưa có Lý Tư Huấn
Hỏi chữ nay không Dương Tử Vân).
Sự kiện trên được chép trong “Yên thiều bút lục” của Nguyễn Tử Giản (1823 - 1890) sách viết tay của thư viện khoa học Trung ương, số A.852 tờ 18a- b; Cứ liệu trên đã được các học giả Tảo Trang và Hoa Bằng đưa ra trên tạp chí văn học số 2 - Hà Nội năm 1972, trang 61 và 64).
Câu đối “... bái mai hoa” của Ngải Tuấn Mỹ tặng Nguyễn Tử Giản là vào năm 1868, trước đó 14 năm, Cao Bá Quát được đồn thổi là đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (Giáp Dần 1854)... phải chăng người đời do quá yêu Cao Chu Thần nên cứ thích tương truyền câu “nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của ông như một giai thoại để đời? Thậm chí người ta còn “sáng tác” ra cả… thủ bút của Cao Bá Quát in đầy trên các sách báo và cả làm câu đối nơi nhà thờ Cao Bá Quát ở Phú Thị (Theo Nguyễn Khôi).
4. Ai là dịch giả của bài Phong Kiều dạ bạc?
Bài thơ Phong Kiều dạ bạc là một giai thoại kỳ thú tôi đã kể trên báo Văn Nghệ, sau này được đưa vào bộ Giai thoại Nhà văn thế giới. Trương Kế viết khoảng trước năm 754 là một bài thơ rất nổi tiếng và được nhiều người yêu thơ Việt Nam biết đến qua bản dịch: “Đêm đỗ thuyền ở bến Phong Kiều”.
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Dịch phẩm trên toàn bích, rút được cái thần hồn của nguyên tác. Trước đây, Trần Trọng San (1957) và Lý Văn Hùng (1961), Thơ Đường tập II đều ghi là Tản Đà dịch. Đến năm 2003, nhà Kiều học Nguyễn Quảng Tuân phát hiện ra trong di sản văn hóa của Đinh Nhật Thận (1841) đỗ tiến sĩ thời vua Minh Mạng (bạn của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh) là tác giả Thu dạ lữ hoài ngâm. Thời gian Cao Bá Quát bị nạn, Đinh Nhật Thận bị giam lỏng ở Huế... Một đêm ngồi trong thư phòng bên bờ sông Hương, ông nhớ đến Trương Kế với bài Phong Kiều dạ bạc... Ông hạ bút:
Đăng tiền độc đối thư trai
Thương tâm khách địa hữu hoài cố nhân
Hương thủy ngoại hốt văn ngư vận
Tòng hà lai trạo tấn giang biên
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên
Hàn San ám nhận khách thuyền cánh phi.
Đại ý là: Trong phòng văn một mình ngồi trước ngọn đèn, chạnh lòng đất khách, sực nhớ đến người xưa (Trương Kế). Ngoài sông Hương chợt nghe hò mái đẩy của kẻ phường chài từ đâu mà chèo tới bến sông thế nhỉ? Đêm trăng trời sương, lòng luống những bồi hồi, đoán chúng là thuyền khách bên chùa Hàn San (Trương Kế) nhưng đó chỉ là mơ...
Cái độc đáo của Đinh Nhật Thận ở đây là mượn lời thơ của Trương Kế tả cảnh “Nguyệt dạ sương thiên” và thay vào tiếng chuông chùa Hàn San bằng tiếng chuông chùa Diệu Đế (ở Huế) “Dạ văn diệu đế chung thanh” không bằng chữ Nôm mà bằng chữ Hán theo thể song thất lục bát. Đây là trường hợp đặc biệt duy nhất trong văn học Việt Nam xưa nay. Chia sẻ với nỗi lòng của bạn, Nguyễn Hàm Ninh đã diễn Nôm Phong Kiều dạ bạc, nguyên gốc là:
Quạ kêu, trăng lặn, trời sương
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
So nhiều bản dịch xưa nay thì bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh đáng là “tài hoa tột bậc”, chỉ tiếc là ông đã để rơi mất chữ “Phong” kèm chữ “Giang” (theo mô típ thơ xưa thì “Phong” là biểu hiện mùa thu, “Phong lạc ngô giang lãnh” - lá phong rụng làm sông Ngô lạnh. “Giang Phong” ở đây cùng với “sương đầy trời” là cảm nhận “khí thu”, đồng thời để diễn tả một cách kín đáo nỗi sầu của thi nhân lãng tử. Tuy nhiên, trong một bài thơ 4 câu (dịch) lại có 2 chữ “bến” thì không thể gọi là toàn bích được. (Theo Nguyễn Khôi)
6. Cho đến tận bây giờ, các sách lịch sử, truyện, kịch bản sân khấu đều chép chồng bà Trưng Trắc tên là Thi Sách! Các dịch giả sách Việt sử thông giám cương mục chú rằng “Trong Thủy Kinh chú, quyển 37 tờ 62 chép chồng bà Trưng Trắc là Thi…” Chữ “sách” có nghĩa là: hỏi, dạm, lấy. Sách Hậu Hán thư là văn bản cổ nhất chép thế này, nguyên văn “Con trai lạc tướng Châu Diên là Thi sách (lấy) con gái lạc tướng Mê Linh là Trưng Trắc”. Sự lầm lỗi này cần phải đính chính lại. Ông ấy tên là Thi thôi.
Những cái sai tương tự như thế, ta có thể dẫn ra vô thiên lủng:
Tên tuổi của Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi, cho đến nay vẫn tồn tại cách viết là Mạc Đĩnh Chi. Đỉnh là cái vạc - tượng trưng cho sự phú quý, trong câu “Miếng chung đỉnh mất rồi lại có” (Nguyễn Gia Thiều). Chi: vun bón, chăm sóc, ủng hộ cho cái vạc chứa đầy của cải. Đỉnh chứ không phải là đĩnh (thoi bạc); Chi (có bộ tài gãy đặt trước chữ chi là cành) không phải chi vật lượng từ trong văn ngôn (Hán cổ), tương đương với chữ đích (tưa âm Bắc Kinh) trong Hán ngữ. Các nhà Hán Nôm Việt Nam cũng viết sai nốt chữ Chi này khi chuyển sang Hán tự.
Lại nữa, tên Nho sĩ Lương Nhữ Hộc được viết thành Lương Như Học chình ình trên bảng hiệu tên đường ở quận Năm. Tên Ngự sử đời Trần Đoàn Nhữ Hài viết trên bảng tên đường Đoàn Như Hài ở quận Tư, Tp. Hồ Chí Minh là những tên tuổi mà các vị hữu trách cần phải sửa ngay, không nên làm ngơ mãi.
Còn nữa, tên tác giả Truyền kỳ mạn lục là Nguyễn Dư, viết sách báo tôi đã đính chính khắp nơi, người ta vẫn cứ ngoan cố chép là Nguyễn Dữ. Nghĩ xem, chẳng ai đặt cho mình cái tên xấu (dữ dằn) như thế cả.
Một người viết sai, cả nước, đời này qua đời nọ đọc sai là vậy.
7. Ai là tác giả Hỡi cô tát nước bên đàng?
Tháng 12/1934 Bàng Bá Lân xuất bản thi phẩm đầu tay Tiếng thông reo do Nxb. Thanh Hoa Tùng Thư ở Hà Nội in, trong đó có bài: “Trăng Quê”.
Trời cao, mây bạc, trăng tròn
Đê than hiu quạnh, tre buồn nỉ non
Diều ai gọi gió véo von
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu dàng
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?
(Tập Tiếng thông reo)
Hai câu kết thần bút của bài Trăng quê ở trên của thi sĩ Bàng Bá Lân, lâu nay đã được dân gian hóa thành ca dao.
8. Ai là tác giả bài ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà?
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà giầm tương
Nhớ ai giãi nắng giầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Lần ấy (1990), ngồi soạn những tư liệu để viết chương sách về Á Nam Trần Tuấn Khải trong bộ sách Giai thoại Nhà văn Việt Nam tôi đã phát hiện ra bài ca dao trên là của Á Nam Trần Tuấn Khải.
Vâng, để giữ sự công bằng, những gì của César nên đem trả lại cho César!
T.D.H
(SDB9/6-13)
NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)
NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.