Con người văn chương đánh thức khát vọng

09:19 24/05/2017

NGUYỄN THÀNH

Kỷ niệm 60 năm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế (1957 - 2017)

Đại học Khoa học và Đại học Văn khoa trước 1975 (Ảnh tư liệu: Dân Trí)

Ngày 23/03/2017, Khoa Ngữ văn thuộc trường ĐHKH Huế đã tổ chức “Lễ kỷ niệm 60 năm xây dựng và phát triển”. Nhà nghiên cứu, PGS. TS. Nguyễn Thành - Trưởng Khoa Ngữ văn đã có bài diễn văn ghi nhận sâu sắc công lao giáo dục của các thầy cô trong chiều dài 60 năm, nhờ đây sản sinh ra nhiều nhân tài ở nhiều lĩnh vực đang không ngừng cống hiến cho xã hội. Sông Hương xin trích lược bài diễn văn này.


Cách đây 60 năm, trên mảnh đất Cố đô Huế lịch sử và văn hóa, Ban Văn chương được thành lập vào ngày 01 tháng 3 năm 1957 và được xây dựng như là một trong những phân ban chuyên môn quan trọng trong hệ thống đào tạo của Viện Đại học Huế. Đến ngày 01 tháng 02 năm 1959, Viện Đại học Huế chính thức ký quyết định thành lập Trường Đại học Văn khoa. Đây chính là tiền thân của khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (sau năm 1975), nay là Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Lịch sử thay đổi, tên gọi các ngành đào tạo cũng thay đổi ít nhiều nhưng cốt lõi của nền tảng đào tạo mà khoa Ngữ văn đã và đang theo đuổi vẫn là bất biến. Đó là tinh thần nhân văn, khoa học và khai phóng.

Vượt qua những khó khăn, thầy - trò khoa Ngữ văn nhiều thế hệ đã tiếp nối nhau học tập và sáng tạo, tạo nên truyền thống tốt đẹp của Khoa và Trường, đưa khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế trở thành một trong những địa chỉ đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học uy tín ở miền Trung và cả nước. 60 năm là một hành trình liên tục xét về mặt tâm thức lẫn học thuật và triết mỹ. Mặc dù có sự biến động do một số thầy cô di chuyển hoặc thay đổi công tác, một số khác nghỉ hưu, nhưng đến nay, Khoa vẫn duy trì được đội ngũ cán bộ cơ hữu đủ đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học. Khoa Ngữ văn là một trong những đơn vị trong trường đào tạo cả ba bậc cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ, với số lượng sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh hằng năm khá ổn định. Chất lượng đào tạo được xã hội ghi nhận và đánh giá cao. Khoa cũng là một trong những đơn vị có số lượng lớn đầu sách và các bài báo khoa học được xuất bản, đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, trong các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia. Điều quan trong hơn, là từ chỗ tham gia các hội thảo lớn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, khoa Ngữ văn đã vươn lên trở thành đơn vị tổ chức các hội thảo khoa học chuyên sâu thu hút sự quan tâm của giới khoa học trong nước. Nhờ đó, khoa Ngữ văn nhiều lần được Bộ Giáo dục và Đào tạo khen thưởng, được Đại học Huế và Trường Đại học Khoa học ghi nhận tập thể xuất sắc.

Khoa Ngữ văn tự hào có một đội ngũ những nhà giáo tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, gắn bó sâu nặng với mảnh đất miền Trung thân thương, nghèo khó, biết vượt qua những khó khăn, có khi khắc nghiệt, để chuyên tâm sự nghiệp trồng người và hơn nữa, biết giữ lửa để truyền cảm hứng cho bao thế hệ học trò. Khoa còn tự hào hơn vì có đội ngũ cựu sinh viên hùng hậu: hàng trăm cử nhân giáo khoa ban Văn chương (trước năm 1975), 3251cử nhân các ngành Văn học, Ngôn ngữ học, Hán Nôm (từ 1975 đến nay), 301 thạc sĩ các chuyên ngành Văn học Việt Nam, Ngôn ngữ học, Lý luận văn học và 16 tiến sĩ của hai chuyên ngành Văn học Việt Nam, Ngôn ngữ học; trong đó có nhiều người trở thành những nhà văn tài năng, những nhà báo sắc sảo, những nhà giáo, nhà khoa học chuyên nghiệp; những nhà quản lý lịch lãm và năng động trong các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, văn nghệ, chính trị và xã hội. Hàng chục năm qua, họ đã có những cống hiến nổi bật cho sự phát triển của miền Trung, Tây Nguyên và cả nước. Chúng ta không thể hình dung được các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn nghệ, giáo dục, khoa học xã hội và nhân văn ở miền Trung và Tây Nguyên nhiều năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975) sẽ như thế nào, nếu thiếu vắng lực lượng sinh viên Ngữ văn tốt nghiệp từ không gian khoa học Cố đô Huế. Chính các thế hệ sinh viên của khoa Ngữ văn là những người góp một phần làm thay đổi văn hóa và xã hội của các địa phương, tạo nên cái nhìn khác về mảnh đất miền Trung từ bạn bè ở hai đầu đất nước và vượt qua những đường biên địa lý, rộng hơn thế.

Khoa học Xã hội và Nhân văn nói chung, khoa học Ngữ văn nói riêng từ lâu, hiển nhiên, có một vị trí quan trọng. Nó là khoa học nghiên cứu về xã hội và con người. Chính vì vậy, một điều dường như đã được thừa nhận, khoa học xã hội và nhân văn tạo ra nền tảng cho sự phát triển bền vững của các quốc gia, bởi vì sản phẩm cuối cùng của khoa học xã hội và nhân văn là con người, con người với các mối quan hệ là yếu tố tạo nên sự thành bại của mọi sự. Trong khoa học xã hội và nhân văn, ngành Ngữ văn có một chỗ đứng quan trọng. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt và là biểu hiện khả năng tư duy của con người, vì thế ngôn ngữ học giúp kiến tạo tư duy, sản sinh hiệu năng trong các quan hệ xã hội. Văn chương đánh thức khát vọng, giải bỏ phiền muộn, giúp con người tự tin hơn và nhờ vậy, nó cũng là phương cách giúp con người xích lại gần nhau hơn.

Nhân dịp kỷ niệm 60 năm (1957 - 2017), chúng ta thành kính ghi ơn nhiều người thầy khả kính trong và ngoài trường, trong đó có những người đã đi vào cõi vĩnh hằng - những người đã “gieo chữ” trên cánh đồng. Chúng ta cũng tri ân nhiều cơ quan ban ngành và nhân dân các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên mà trước hết là tỉnh Thừa Thiên Huế, những nơi tạo cảm hứng và niềm tin cho chúng ta trong những tháng năm đèn sách, những đợt thực tập, thực tế, những ngày đầu ra trường chập chững vào đời, cũng như sau này. Chúng ta chân thành cảm ơn tất cả, từng gương mặt thân quen, từng bữa cơm đạm bạc nhưng sâu nặng tình người; cảm ơn những dòng sông, những cánh đồng và những câu hò, điệu hát dân ca; cảm ơn những trang văn đã đánh thức tình người, tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu văn chương và tiếng Việt trong mỗi tâm hồn thời trai trẻ, để giúp chúng ta lớn lên và vững chãi trong đời.

N.T
(TCSH339/05-2017)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.