NGUYỄN THÀNH
Kỷ niệm 60 năm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế (1957 - 2017)
Đại học Khoa học và Đại học Văn khoa trước 1975 (Ảnh tư liệu: Dân Trí)
Ngày 23/03/2017, Khoa Ngữ văn thuộc trường ĐHKH Huế đã tổ chức “Lễ kỷ niệm 60 năm xây dựng và phát triển”. Nhà nghiên cứu, PGS. TS. Nguyễn Thành - Trưởng Khoa Ngữ văn đã có bài diễn văn ghi nhận sâu sắc công lao giáo dục của các thầy cô trong chiều dài 60 năm, nhờ đây sản sinh ra nhiều nhân tài ở nhiều lĩnh vực đang không ngừng cống hiến cho xã hội. Sông Hương xin trích lược bài diễn văn này.
Cách đây 60 năm, trên mảnh đất Cố đô Huế lịch sử và văn hóa, Ban Văn chương được thành lập vào ngày 01 tháng 3 năm 1957 và được xây dựng như là một trong những phân ban chuyên môn quan trọng trong hệ thống đào tạo của Viện Đại học Huế. Đến ngày 01 tháng 02 năm 1959, Viện Đại học Huế chính thức ký quyết định thành lập Trường Đại học Văn khoa. Đây chính là tiền thân của khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (sau năm 1975), nay là Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Lịch sử thay đổi, tên gọi các ngành đào tạo cũng thay đổi ít nhiều nhưng cốt lõi của nền tảng đào tạo mà khoa Ngữ văn đã và đang theo đuổi vẫn là bất biến. Đó là tinh thần nhân văn, khoa học và khai phóng.
Vượt qua những khó khăn, thầy - trò khoa Ngữ văn nhiều thế hệ đã tiếp nối nhau học tập và sáng tạo, tạo nên truyền thống tốt đẹp của Khoa và Trường, đưa khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế trở thành một trong những địa chỉ đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học uy tín ở miền Trung và cả nước. 60 năm là một hành trình liên tục xét về mặt tâm thức lẫn học thuật và triết mỹ. Mặc dù có sự biến động do một số thầy cô di chuyển hoặc thay đổi công tác, một số khác nghỉ hưu, nhưng đến nay, Khoa vẫn duy trì được đội ngũ cán bộ cơ hữu đủ đáp ứng yêu cầu đào tạo và nghiên cứu khoa học. Khoa Ngữ văn là một trong những đơn vị trong trường đào tạo cả ba bậc cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ, với số lượng sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh hằng năm khá ổn định. Chất lượng đào tạo được xã hội ghi nhận và đánh giá cao. Khoa cũng là một trong những đơn vị có số lượng lớn đầu sách và các bài báo khoa học được xuất bản, đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, trong các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia. Điều quan trong hơn, là từ chỗ tham gia các hội thảo lớn tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, khoa Ngữ văn đã vươn lên trở thành đơn vị tổ chức các hội thảo khoa học chuyên sâu thu hút sự quan tâm của giới khoa học trong nước. Nhờ đó, khoa Ngữ văn nhiều lần được Bộ Giáo dục và Đào tạo khen thưởng, được Đại học Huế và Trường Đại học Khoa học ghi nhận tập thể xuất sắc.
Khoa Ngữ văn tự hào có một đội ngũ những nhà giáo tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, gắn bó sâu nặng với mảnh đất miền Trung thân thương, nghèo khó, biết vượt qua những khó khăn, có khi khắc nghiệt, để chuyên tâm sự nghiệp trồng người và hơn nữa, biết giữ lửa để truyền cảm hứng cho bao thế hệ học trò. Khoa còn tự hào hơn vì có đội ngũ cựu sinh viên hùng hậu: hàng trăm cử nhân giáo khoa ban Văn chương (trước năm 1975), 3251cử nhân các ngành Văn học, Ngôn ngữ học, Hán Nôm (từ 1975 đến nay), 301 thạc sĩ các chuyên ngành Văn học Việt Nam, Ngôn ngữ học, Lý luận văn học và 16 tiến sĩ của hai chuyên ngành Văn học Việt Nam, Ngôn ngữ học; trong đó có nhiều người trở thành những nhà văn tài năng, những nhà báo sắc sảo, những nhà giáo, nhà khoa học chuyên nghiệp; những nhà quản lý lịch lãm và năng động trong các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, văn nghệ, chính trị và xã hội. Hàng chục năm qua, họ đã có những cống hiến nổi bật cho sự phát triển của miền Trung, Tây Nguyên và cả nước. Chúng ta không thể hình dung được các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn nghệ, giáo dục, khoa học xã hội và nhân văn ở miền Trung và Tây Nguyên nhiều năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975) sẽ như thế nào, nếu thiếu vắng lực lượng sinh viên Ngữ văn tốt nghiệp từ không gian khoa học Cố đô Huế. Chính các thế hệ sinh viên của khoa Ngữ văn là những người góp một phần làm thay đổi văn hóa và xã hội của các địa phương, tạo nên cái nhìn khác về mảnh đất miền Trung từ bạn bè ở hai đầu đất nước và vượt qua những đường biên địa lý, rộng hơn thế.
Khoa học Xã hội và Nhân văn nói chung, khoa học Ngữ văn nói riêng từ lâu, hiển nhiên, có một vị trí quan trọng. Nó là khoa học nghiên cứu về xã hội và con người. Chính vì vậy, một điều dường như đã được thừa nhận, khoa học xã hội và nhân văn tạo ra nền tảng cho sự phát triển bền vững của các quốc gia, bởi vì sản phẩm cuối cùng của khoa học xã hội và nhân văn là con người, con người với các mối quan hệ là yếu tố tạo nên sự thành bại của mọi sự. Trong khoa học xã hội và nhân văn, ngành Ngữ văn có một chỗ đứng quan trọng. Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt và là biểu hiện khả năng tư duy của con người, vì thế ngôn ngữ học giúp kiến tạo tư duy, sản sinh hiệu năng trong các quan hệ xã hội. Văn chương đánh thức khát vọng, giải bỏ phiền muộn, giúp con người tự tin hơn và nhờ vậy, nó cũng là phương cách giúp con người xích lại gần nhau hơn.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm (1957 - 2017), chúng ta thành kính ghi ơn nhiều người thầy khả kính trong và ngoài trường, trong đó có những người đã đi vào cõi vĩnh hằng - những người đã “gieo chữ” trên cánh đồng. Chúng ta cũng tri ân nhiều cơ quan ban ngành và nhân dân các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên mà trước hết là tỉnh Thừa Thiên Huế, những nơi tạo cảm hứng và niềm tin cho chúng ta trong những tháng năm đèn sách, những đợt thực tập, thực tế, những ngày đầu ra trường chập chững vào đời, cũng như sau này. Chúng ta chân thành cảm ơn tất cả, từng gương mặt thân quen, từng bữa cơm đạm bạc nhưng sâu nặng tình người; cảm ơn những dòng sông, những cánh đồng và những câu hò, điệu hát dân ca; cảm ơn những trang văn đã đánh thức tình người, tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu văn chương và tiếng Việt trong mỗi tâm hồn thời trai trẻ, để giúp chúng ta lớn lên và vững chãi trong đời.
N.T
(TCSH339/05-2017)
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.