Con người Phong Lê qua văn

08:56 26/12/2008
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

Ngày còn ở chung khu tập thể với gia đình anh, khi anh đi công tác xa sắp về, chúng tôi cứ đưa mắt cho nhau mà cười khi thấy việc đầu tiên chuẩn bị đón “bố” (cách mà chị Vân thường dùng để gọi anh) là mấy mẹ con táo tác lên lau dọn cửa nhà. Hầu như chẳng mấy khi gặp anh ngồi nhậu lai rai nơi quán xá hay ở một restaurant sang trọng. Đến chơi nhà ai, dù thân, chẳng mấy khi anh ngồi thật lâu. Nằm viện, anh cũng ôm vào bao nhiêu là tài liệu, sách vở, để khi không có bác sĩ hay nhân viên y tế đi kiểm tra là anh tranh thủ viết. Một lần đi công tác vào Vinh, khi chúng tôi giở món “dưa lê” ra “buôn” thì thấy anh lẳng lặng lôi một tập bản thảo ra ngồi cắm cúi viết, dường như tách mình khỏi cuộc sống xung quanh mặc dù chúng tôi cố lôi anh vào chuyện. Nhiều lần đến chơi nhà hay vào phòng làm việc, thấy mặt anh bạc phếch nhưng vẫn lại ngồi vào bàn hí hoáy trên những trang bản thảo chi chít dấu dập xóa, chúng tôi can, anh chỉ cười: nếu bắt mình nghỉ thì chắc mình còn ốm hơn.

2. Có lẽ Phong Lê không nói quá. Tôi thấy anh tận dụng mọi thời gian để đọc, để viết. Và sức viết dường như ngày càng dẻo dai. Vượt qua cái hạn của một trận ốm thập tử nhất sinh hơn chục năm về trước, nhiều năm nay sức anh khá lên và dường như tuần nào, tháng nào anh cũng có bài, chí ít là bài báo ngắn. Nhưng nếu chỉ biết có cắm mặt trên “trang giấy trước đèn” thì dẫu “ra phố” năm chục năm rồi, nét chất phác của con người miền Trung vẫn còn lưu đậm ở anh dễ có cơ biến anh thành một người gàn. Ở Phong Lê, tuy chú mắt vào con chữ, trang sách hoặc trang bản thảo, nhưng anh vẫn nghe, vẫn dành tâm trí cho bè bạn, gia đình. Thời buổi kinh tế thị trường cái tình người không còn được mặn mà, đằm thắm như hồi bao cấp nhưng nhìn mối quan hệ của anh với đồng nghiệp các thế hệ trong cơ quan, đặc biệt với những người thuộc thế hệ đàn em, với học trò, nơi anh có ngót dăm chục năm công tác thì thấy không hẳn thế. Anh có sự cảm thông, chia sẻ với những ai có hoàn cảnh khó khăn và dành sự ưu ái cho những ai gặp điều không may mắn.

Căn phòng làm việc được cơ quan phân cho sau khi anh nghỉ quản lí, một thời gian dài là nơi “tá túc” cho nhiều nghiên cứu sinh tỉnh xa về không có điều kiện thuê nhà nghỉ gần thư viện mà lại cũng không muốn làm phiền đến họ hàng. Sự thân mật, xuề xòa trong ứng xử thường ngày đã tạo nên cảm giác dễ chịu cho những ai mới gặp. Nhiều mối quan hệ thân tình với đồng nghiệp không chỉ là chỗ dựa hàng ngày trong đời sống tinh thần mà thực tế đã đưa lại những cảm xúc tươi mới và hắt bóng lên nhiều trang sách của anh. Xưa nay cái khó của người làm văn học cổ là chỉ làm việc trên văn bản, nhưng cái dễ nhiều khi cũng lại nằm ở đó. Với văn học hiện đại, cái dễ nhưng cũng là cái khó cũng lại không chỉ làm việc ở trên văn bản bởi đằng sau mỗi tác phẩm là con người cụ thể của nhà văn với bao nhiêu buồn vui trong nghề viết, trong suy nghĩ, sinh hoạt của đời thường mà quan niệm và các mối quan hệ của nhà văn chắc chắn sẽ cho người nghiên cứu, phê bình văn học đương đại nhiều cơ hội để đi sâu hơn vào tác phẩm của họ. Vì vậy mà trải bấy nhiêu năm qua trong công việc, với bản tính nhiệt tình, quí mến và thông hiểu công việc lao động viết lách, anh đã có nhiều mối quan hệ thân tình với nhiều nhà văn và đồng nghiệp. Điều đó đã in dấu rất rõ trong Người trong văn - tập chân dung và tiểu luận do Nhà xuất bản Văn hóa Sài gòn mới phát hành. Người đọc đã cảm nhận được đằng sau những gì toát lên từ con chữ mà anh rút ra từ văn bản tác phẩm là cái tình người hồn hậu, là sự trân trọng mà từ một người vắt kiệt sức mình trong nghề, anh dành cho những người cũng một đời trần lực trên trang giấy với bao mong mỏi, khát khao... trong số đó không ít người kém may mắn, hoặc ra đi khi tài năng đang vào độ chín.

3. Phụ đề là Chân dung và tiểu luận nhưng nội dung cơ bản của tập sách vẫn là chân dung và trong chân dung có hàm tiểu luận. Với 30 bài với 31 tên người, có thể nói, diện bao quát về văn học hiện đại của Phong Lê là rộng. Và sâu. Anh viết về các nhà văn, nhà thơ. Anh viết về các nhà phê bình, nghiên cứu. Anh viết về các nhà dịch thuật. Có người là bậc đàn anh, là thủ trưởng một thời dìu dắt anh như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông. Có người là thầy như Hoàng Như Mai, là đồng nghiệp như Hà Minh Đức, Ninh Viết Giao. Có những tên tuổi lớn như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, “những người muôn năm cũ” như Vũ Đình Liên, hoặc gắn bó, gần gũi với anh một thời như Lê Khả Kế, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Trung Đức. Hai phần sách - hai mảng chân dung: phần I là các nhà văn, phần II là các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, dịch thuật - mỗi chân dung đều được Phong Lê khắc họa một cách sắc nét vóc dáng, thần sắc của họ trong lao động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống, đời thường. Điều toát lên ở mỗi chân dung là sự giản dị trong cuộc sống, là sự nỗ lực tìm tòi theo cách của mình để làm nên chính gương mặt riêng của mỗi người, cũng là đóng góp của họ trong nền văn học hiện đại. Cũng có thể nói rằng chính qua những gương mặt mà Phong Lê phác họa bằng kĩ năng và tâm thức của mình ta thấy được bóng dáng nhà phê bình nhưng cũng qua đây người đọc có thể có một cách hình dung về văn học hiện đại.

Tôi đã đọc Nguyên Hồng, đọc nhiều bài viết về ông, tôi từng tâm đắc với nhận xét của Nguyễn Minh Châu khi ông nói rằng “Nguyên Hồng là nhà văn của thập loại chúng sinh”, đã “từ trong lòng cái xã hội thập loại chúng sinh ấy bước ra cầm lấy cây bút sắt, chấm vào mồ hôi, máu và nước mắt của mình mà viết ra văn chương của riêng mình”; nhưng đọc Phong Lê, tôi cũng đồng cảm với nhận xét xác đáng của ông về nhà văn này: “Sống với những khổ đau của nhân vật đến có thể luôn luôn, lúc nào cũng có thể rưng rưng mà khóc vì họ, băn khoăn đến hốt hoảng vì họ, không ăn không ngủ được vì họ, như một người mẹ mang thai, có lẽ chỉ riêng Nguyên Hồng mới có”. Nhà văn đó chỉ có nỗi đam mê là “viết và viết. Viết từ trẻ đến già. Viết cả trong nhà tù và trong cái đói thường trực. Tựa như dốc cạn cuộc đời ra mà viết. Tựa như vắt kiệt mình ra mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng cao cả của nghề. Không viết không sống nổi”. Tôi đọc Võ Quảng - một đời văn cho thiếu nhi với sự xúc động sâu sắc khi hình dung ra trước mắt cảnh sống cô đơn, vắng lặng, không mấy tiện nghi ở cái tuổi ngoài tám mươi, trong buổi chiều ba mươi Tết của nhà văn khi vợ ông nằm viện, một mình ở nhà, ông mở đài ra nghe nhưng không biết tắt; và cùng Phong Lê điểm lại những trang viết chứa chan tình người tình đời, những trang văn mà theo anh là “rồi sẽ trở thành hành trang tinh thần cho lớp lớp thế hệ tuổi thơ” của ông - một con người cần mẫn, lặng lẽ trong cuộc đời lao động sáng tạo của mình.

Trong khuôn khổ của hai kì báo Văn nghệ, Phong Lê đã có một cách thể hiện chân dung Ma Văn Kháng với những đóng góp đặc sắc, sự lao động bền bỉ và thuộc trong số những người đứng ở vị tí tiền tiêu của công cuộc đổi mới. Đó là những trang viết của một người không chỉ đọc kĩ các sáng tác rồi đặt nó vào bối cảnh chung mà cân nhắc, mà những trang viết ấy Phong Lê còn kết hợp được trong đó con người và tính cách Ma Văn Kháng mà anh nhìn ra, cảm thấy trong hàng ngày khi giữa nhà văn và anh có mối tình cảm thân thiết tự bao nhiêu năm nay, thuở hai gia đình đều có chung niềm vui được phân nhà ở khu tập thể Thành Công. Văn và người, văn và đời còn hòa quyện làm nên sự tươi mát, thấu tình, những trang văn không nặng chất hàn lâm khi viết về Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng... Đó là những nhà văn mà hơn một lần anh có bài viết về họ nhưng mỗi lần họ lại được anh soi chiếu ở những góc khác nhau và càng về sau chân dung các nhà văn này càng trở nên cụ thể, gần gũi. Các nhà phê bình thường chọn tiêu điểm ở tác phẩm để từ đó triển khai vấn đề. Nhất quán trong logic cấu trúc, nhưng có bài viết vẫn gợn cho người đọc cảm thấy nó có điều gì đó hơi “nghề”. Trong các viết trước đây, lắm khi Phong Lê cũng có làm văn. Nhưng ở tập sách này, nhất là những bài viết trong khoảng thời gian dăm mười năm trở lại đây, đọc anh thấy dường như anh đã hóa thân vào tác phẩm, sống với nỗi đau trở dạ của nhà văn, của những lao động nhọc nhằn; đồng cảm hơn với những bất hạnh, rủi ro do tai nạn nghề nghiệp hay số phận đưa lại cho nhà văn.

Bài viết Ở tuổi 85 nhà nghiên cứu và lí luận Vũ Đức Phúc Phong Lê đã cho độc giả hiểu hơn con người ông “một người, cho đến bây giờ vẫn là người bị mang tiếng là “thích sát phạt”, là “lính gác” nhưng đó là một con người “dứt khoát đến rạch ròi trong tranh luận”, “người có chính kiến, cũng là người không định kiến”, lành, “là người thẳng thắn, trung hậu không có thù dai, không hay để bụng”, “không lựa đón, không quay quắt”. Lời thanh minh ấy, tôi nghĩ là chân thành, nghiêm túc vì anh là người cộng tác gần gũi với GS Vũ Đức Phúc nhiều năm, chắc chắn không ít lần anh đã chịu những cơn nóng lạnh thất thường của ông. Và tôi biết đó cũng là suy nghĩ, tình cảm của riêng tôi và nhiều người khác trước đây từng làm việc với ông nhưng chưa có dịp nói ra. Với Lặng lẽ chân dung Lê Khả Kế Phong Lê đã phác thảo hình ảnh một nhà khoa học thực tài, thực tâm: “yên lặng, ít nói, một chút cô đơn, không muốn làm phiền ai”... Bài viết với số trang không nhiều nhưng chân dung một con người nhẫn nhịn trong ứng xử, miệt mài rất đáng kính trọng trong công việc và cô đơn trong cảnh già hiện ra trước mắt ta đầy thương cảm. Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khắc Viện, Quang Dũng, Nguyễn Mạnh Hào với những nỗ lực phi thường để vượt lên sự xô đẩy của hoàn cảnh, vượt lên những rủi ro của số phận đã thành nơi Phong Lê muốn gián tiếp thắp sáng lòng tin cho những ai còn yếm thế, chưa đủ sức vươn lên. Trong những bài viết về Đặng Thai Mai, Hoàng Trung Thông, Hà Minh Đức, Ninh Viết Giao, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Trung Đức... Phong Lê đều nêu bật lên được những đóng góp đặc sắc của họ, và các phác thảo chân dung này trở nên sinh động hơn khi ông lồng ghép vào đó bao kỉ niệm của tình đồng nghiệp, đồng hương, của tình người khiến người đọc có cảm giác rằng càng trải nghiệm theo tháng năm, dường như cái tình đó trong anh càng đằm thắm. Qua văn để hiểu người và qua người càng hiểu văn hơn. Đó là cảm giác rõ nhất khi đọc tập chân dung và tiểu luận này.

4. Phong Lê đã có ngót năm mươi năm “sống với thời gian hai chiều” (như cách nói của Vũ Tú Nam) trong văn chương của nước nhà thế kỉ XX, từ buổi đầu của công cuộc hiện đại hóa đến những thập niên cuối đầy vật vã, tìm tòi, quẫy cựa trong việc thoát ra khỏi một thói quen, một cơ chế để đưa văn chương hội nhập với thế giới. Đổi mới mình trong nghiên cứu, phê bình cũng là góp phần vào đổi mới diện mạo văn học. Hành trình của Phong Lê đã cho thấy điều đó. Và Người trong văn là một trong những biểu hiện sinh động cái lực, cái tâm của anh với văn chương và con người vào cái tuổi gần thất thập. Ở đây ngoài tiếng nói tri âm, tri kỉ, ta còn thấy cả tấm lòng biết ơn của anh đối với những gương mặt anh xiết bao yêu mến, kính trọng mà tấm lòng ấy sẽ còn được anh tiếp tục trong thời gian tới với những nhà văn mà anh tìm thấy sự đồng cảm từ trong trang viết, từ cuộc sống đời thường như anh tâm sự trong lời nói đầu của cuốn sách.
 Quan Nhân nửa đầu tháng 7 - 2006
T.P.L

(nguồn: TCSH số 211 - 09 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H