Con người Phong Lê qua văn

08:56 26/12/2008
TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

Ngày còn ở chung khu tập thể với gia đình anh, khi anh đi công tác xa sắp về, chúng tôi cứ đưa mắt cho nhau mà cười khi thấy việc đầu tiên chuẩn bị đón “bố” (cách mà chị Vân thường dùng để gọi anh) là mấy mẹ con táo tác lên lau dọn cửa nhà. Hầu như chẳng mấy khi gặp anh ngồi nhậu lai rai nơi quán xá hay ở một restaurant sang trọng. Đến chơi nhà ai, dù thân, chẳng mấy khi anh ngồi thật lâu. Nằm viện, anh cũng ôm vào bao nhiêu là tài liệu, sách vở, để khi không có bác sĩ hay nhân viên y tế đi kiểm tra là anh tranh thủ viết. Một lần đi công tác vào Vinh, khi chúng tôi giở món “dưa lê” ra “buôn” thì thấy anh lẳng lặng lôi một tập bản thảo ra ngồi cắm cúi viết, dường như tách mình khỏi cuộc sống xung quanh mặc dù chúng tôi cố lôi anh vào chuyện. Nhiều lần đến chơi nhà hay vào phòng làm việc, thấy mặt anh bạc phếch nhưng vẫn lại ngồi vào bàn hí hoáy trên những trang bản thảo chi chít dấu dập xóa, chúng tôi can, anh chỉ cười: nếu bắt mình nghỉ thì chắc mình còn ốm hơn.

2. Có lẽ Phong Lê không nói quá. Tôi thấy anh tận dụng mọi thời gian để đọc, để viết. Và sức viết dường như ngày càng dẻo dai. Vượt qua cái hạn của một trận ốm thập tử nhất sinh hơn chục năm về trước, nhiều năm nay sức anh khá lên và dường như tuần nào, tháng nào anh cũng có bài, chí ít là bài báo ngắn. Nhưng nếu chỉ biết có cắm mặt trên “trang giấy trước đèn” thì dẫu “ra phố” năm chục năm rồi, nét chất phác của con người miền Trung vẫn còn lưu đậm ở anh dễ có cơ biến anh thành một người gàn. Ở Phong Lê, tuy chú mắt vào con chữ, trang sách hoặc trang bản thảo, nhưng anh vẫn nghe, vẫn dành tâm trí cho bè bạn, gia đình. Thời buổi kinh tế thị trường cái tình người không còn được mặn mà, đằm thắm như hồi bao cấp nhưng nhìn mối quan hệ của anh với đồng nghiệp các thế hệ trong cơ quan, đặc biệt với những người thuộc thế hệ đàn em, với học trò, nơi anh có ngót dăm chục năm công tác thì thấy không hẳn thế. Anh có sự cảm thông, chia sẻ với những ai có hoàn cảnh khó khăn và dành sự ưu ái cho những ai gặp điều không may mắn.

Căn phòng làm việc được cơ quan phân cho sau khi anh nghỉ quản lí, một thời gian dài là nơi “tá túc” cho nhiều nghiên cứu sinh tỉnh xa về không có điều kiện thuê nhà nghỉ gần thư viện mà lại cũng không muốn làm phiền đến họ hàng. Sự thân mật, xuề xòa trong ứng xử thường ngày đã tạo nên cảm giác dễ chịu cho những ai mới gặp. Nhiều mối quan hệ thân tình với đồng nghiệp không chỉ là chỗ dựa hàng ngày trong đời sống tinh thần mà thực tế đã đưa lại những cảm xúc tươi mới và hắt bóng lên nhiều trang sách của anh. Xưa nay cái khó của người làm văn học cổ là chỉ làm việc trên văn bản, nhưng cái dễ nhiều khi cũng lại nằm ở đó. Với văn học hiện đại, cái dễ nhưng cũng là cái khó cũng lại không chỉ làm việc ở trên văn bản bởi đằng sau mỗi tác phẩm là con người cụ thể của nhà văn với bao nhiêu buồn vui trong nghề viết, trong suy nghĩ, sinh hoạt của đời thường mà quan niệm và các mối quan hệ của nhà văn chắc chắn sẽ cho người nghiên cứu, phê bình văn học đương đại nhiều cơ hội để đi sâu hơn vào tác phẩm của họ. Vì vậy mà trải bấy nhiêu năm qua trong công việc, với bản tính nhiệt tình, quí mến và thông hiểu công việc lao động viết lách, anh đã có nhiều mối quan hệ thân tình với nhiều nhà văn và đồng nghiệp. Điều đó đã in dấu rất rõ trong Người trong văn - tập chân dung và tiểu luận do Nhà xuất bản Văn hóa Sài gòn mới phát hành. Người đọc đã cảm nhận được đằng sau những gì toát lên từ con chữ mà anh rút ra từ văn bản tác phẩm là cái tình người hồn hậu, là sự trân trọng mà từ một người vắt kiệt sức mình trong nghề, anh dành cho những người cũng một đời trần lực trên trang giấy với bao mong mỏi, khát khao... trong số đó không ít người kém may mắn, hoặc ra đi khi tài năng đang vào độ chín.

3. Phụ đề là Chân dung và tiểu luận nhưng nội dung cơ bản của tập sách vẫn là chân dung và trong chân dung có hàm tiểu luận. Với 30 bài với 31 tên người, có thể nói, diện bao quát về văn học hiện đại của Phong Lê là rộng. Và sâu. Anh viết về các nhà văn, nhà thơ. Anh viết về các nhà phê bình, nghiên cứu. Anh viết về các nhà dịch thuật. Có người là bậc đàn anh, là thủ trưởng một thời dìu dắt anh như Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông. Có người là thầy như Hoàng Như Mai, là đồng nghiệp như Hà Minh Đức, Ninh Viết Giao. Có những tên tuổi lớn như Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, “những người muôn năm cũ” như Vũ Đình Liên, hoặc gắn bó, gần gũi với anh một thời như Lê Khả Kế, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Trung Đức. Hai phần sách - hai mảng chân dung: phần I là các nhà văn, phần II là các nhà nghiên cứu, nhà văn hóa, dịch thuật - mỗi chân dung đều được Phong Lê khắc họa một cách sắc nét vóc dáng, thần sắc của họ trong lao động nghệ thuật cũng như trong cuộc sống, đời thường. Điều toát lên ở mỗi chân dung là sự giản dị trong cuộc sống, là sự nỗ lực tìm tòi theo cách của mình để làm nên chính gương mặt riêng của mỗi người, cũng là đóng góp của họ trong nền văn học hiện đại. Cũng có thể nói rằng chính qua những gương mặt mà Phong Lê phác họa bằng kĩ năng và tâm thức của mình ta thấy được bóng dáng nhà phê bình nhưng cũng qua đây người đọc có thể có một cách hình dung về văn học hiện đại.

Tôi đã đọc Nguyên Hồng, đọc nhiều bài viết về ông, tôi từng tâm đắc với nhận xét của Nguyễn Minh Châu khi ông nói rằng “Nguyên Hồng là nhà văn của thập loại chúng sinh”, đã “từ trong lòng cái xã hội thập loại chúng sinh ấy bước ra cầm lấy cây bút sắt, chấm vào mồ hôi, máu và nước mắt của mình mà viết ra văn chương của riêng mình”; nhưng đọc Phong Lê, tôi cũng đồng cảm với nhận xét xác đáng của ông về nhà văn này: “Sống với những khổ đau của nhân vật đến có thể luôn luôn, lúc nào cũng có thể rưng rưng mà khóc vì họ, băn khoăn đến hốt hoảng vì họ, không ăn không ngủ được vì họ, như một người mẹ mang thai, có lẽ chỉ riêng Nguyên Hồng mới có”. Nhà văn đó chỉ có nỗi đam mê là “viết và viết. Viết từ trẻ đến già. Viết cả trong nhà tù và trong cái đói thường trực. Tựa như dốc cạn cuộc đời ra mà viết. Tựa như vắt kiệt mình ra mà viết. Viết với tất cả tín niệm thiêng liêng cao cả của nghề. Không viết không sống nổi”. Tôi đọc Võ Quảng - một đời văn cho thiếu nhi với sự xúc động sâu sắc khi hình dung ra trước mắt cảnh sống cô đơn, vắng lặng, không mấy tiện nghi ở cái tuổi ngoài tám mươi, trong buổi chiều ba mươi Tết của nhà văn khi vợ ông nằm viện, một mình ở nhà, ông mở đài ra nghe nhưng không biết tắt; và cùng Phong Lê điểm lại những trang viết chứa chan tình người tình đời, những trang văn mà theo anh là “rồi sẽ trở thành hành trang tinh thần cho lớp lớp thế hệ tuổi thơ” của ông - một con người cần mẫn, lặng lẽ trong cuộc đời lao động sáng tạo của mình.

Trong khuôn khổ của hai kì báo Văn nghệ, Phong Lê đã có một cách thể hiện chân dung Ma Văn Kháng với những đóng góp đặc sắc, sự lao động bền bỉ và thuộc trong số những người đứng ở vị tí tiền tiêu của công cuộc đổi mới. Đó là những trang viết của một người không chỉ đọc kĩ các sáng tác rồi đặt nó vào bối cảnh chung mà cân nhắc, mà những trang viết ấy Phong Lê còn kết hợp được trong đó con người và tính cách Ma Văn Kháng mà anh nhìn ra, cảm thấy trong hàng ngày khi giữa nhà văn và anh có mối tình cảm thân thiết tự bao nhiêu năm nay, thuở hai gia đình đều có chung niềm vui được phân nhà ở khu tập thể Thành Công. Văn và người, văn và đời còn hòa quyện làm nên sự tươi mát, thấu tình, những trang văn không nặng chất hàn lâm khi viết về Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng... Đó là những nhà văn mà hơn một lần anh có bài viết về họ nhưng mỗi lần họ lại được anh soi chiếu ở những góc khác nhau và càng về sau chân dung các nhà văn này càng trở nên cụ thể, gần gũi. Các nhà phê bình thường chọn tiêu điểm ở tác phẩm để từ đó triển khai vấn đề. Nhất quán trong logic cấu trúc, nhưng có bài viết vẫn gợn cho người đọc cảm thấy nó có điều gì đó hơi “nghề”. Trong các viết trước đây, lắm khi Phong Lê cũng có làm văn. Nhưng ở tập sách này, nhất là những bài viết trong khoảng thời gian dăm mười năm trở lại đây, đọc anh thấy dường như anh đã hóa thân vào tác phẩm, sống với nỗi đau trở dạ của nhà văn, của những lao động nhọc nhằn; đồng cảm hơn với những bất hạnh, rủi ro do tai nạn nghề nghiệp hay số phận đưa lại cho nhà văn.

Bài viết Ở tuổi 85 nhà nghiên cứu và lí luận Vũ Đức Phúc Phong Lê đã cho độc giả hiểu hơn con người ông “một người, cho đến bây giờ vẫn là người bị mang tiếng là “thích sát phạt”, là “lính gác” nhưng đó là một con người “dứt khoát đến rạch ròi trong tranh luận”, “người có chính kiến, cũng là người không định kiến”, lành, “là người thẳng thắn, trung hậu không có thù dai, không hay để bụng”, “không lựa đón, không quay quắt”. Lời thanh minh ấy, tôi nghĩ là chân thành, nghiêm túc vì anh là người cộng tác gần gũi với GS Vũ Đức Phúc nhiều năm, chắc chắn không ít lần anh đã chịu những cơn nóng lạnh thất thường của ông. Và tôi biết đó cũng là suy nghĩ, tình cảm của riêng tôi và nhiều người khác trước đây từng làm việc với ông nhưng chưa có dịp nói ra. Với Lặng lẽ chân dung Lê Khả Kế Phong Lê đã phác thảo hình ảnh một nhà khoa học thực tài, thực tâm: “yên lặng, ít nói, một chút cô đơn, không muốn làm phiền ai”... Bài viết với số trang không nhiều nhưng chân dung một con người nhẫn nhịn trong ứng xử, miệt mài rất đáng kính trọng trong công việc và cô đơn trong cảnh già hiện ra trước mắt ta đầy thương cảm. Tạ Quang Bửu, Nguyễn Khắc Viện, Quang Dũng, Nguyễn Mạnh Hào với những nỗ lực phi thường để vượt lên sự xô đẩy của hoàn cảnh, vượt lên những rủi ro của số phận đã thành nơi Phong Lê muốn gián tiếp thắp sáng lòng tin cho những ai còn yếm thế, chưa đủ sức vươn lên. Trong những bài viết về Đặng Thai Mai, Hoàng Trung Thông, Hà Minh Đức, Ninh Viết Giao, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Trung Đức... Phong Lê đều nêu bật lên được những đóng góp đặc sắc của họ, và các phác thảo chân dung này trở nên sinh động hơn khi ông lồng ghép vào đó bao kỉ niệm của tình đồng nghiệp, đồng hương, của tình người khiến người đọc có cảm giác rằng càng trải nghiệm theo tháng năm, dường như cái tình đó trong anh càng đằm thắm. Qua văn để hiểu người và qua người càng hiểu văn hơn. Đó là cảm giác rõ nhất khi đọc tập chân dung và tiểu luận này.

4. Phong Lê đã có ngót năm mươi năm “sống với thời gian hai chiều” (như cách nói của Vũ Tú Nam) trong văn chương của nước nhà thế kỉ XX, từ buổi đầu của công cuộc hiện đại hóa đến những thập niên cuối đầy vật vã, tìm tòi, quẫy cựa trong việc thoát ra khỏi một thói quen, một cơ chế để đưa văn chương hội nhập với thế giới. Đổi mới mình trong nghiên cứu, phê bình cũng là góp phần vào đổi mới diện mạo văn học. Hành trình của Phong Lê đã cho thấy điều đó. Và Người trong văn là một trong những biểu hiện sinh động cái lực, cái tâm của anh với văn chương và con người vào cái tuổi gần thất thập. Ở đây ngoài tiếng nói tri âm, tri kỉ, ta còn thấy cả tấm lòng biết ơn của anh đối với những gương mặt anh xiết bao yêu mến, kính trọng mà tấm lòng ấy sẽ còn được anh tiếp tục trong thời gian tới với những nhà văn mà anh tìm thấy sự đồng cảm từ trong trang viết, từ cuộc sống đời thường như anh tâm sự trong lời nói đầu của cuốn sách.
 Quan Nhân nửa đầu tháng 7 - 2006
T.P.L

(nguồn: TCSH số 211 - 09 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!