Con hổ

09:55 16/06/2010
LTS. S. Rajaratnam thuộc thế hệ những nhà văn cũ của Singapo. Ông có thời làm Bộ trưởng Ngoại giao của Singapo. Truyện ngắn của ông mang chất thơ và tính nhân bản cao. Sông Hương xin giới thiệu một trong những truyện ngắn hay của Rajaratnam.

Ảnh: iseas.edu.sg

S. RAJARATNAM


Con hổ


Phachima đắm mình vào dòng sông lạnh buốt, đục ngầu. Những dải nước dường như thoáng rực lên dưới ánh mặt trời đang tắt dần, nhẹ nhàng ôm lấy cơ thể nàng. Phachima tiến lại gần bờ, nơi nước chỉ ngập đến thắt lưng, Tấm xà rông ẩm ướt dán chặt vào cơ thể nâu bóng đầy đặn làm hẳn rõ bộ ngực và cái bụng căng tròn của người phụ nữ thai nghén. Gương mặt có gò má cao, không vẻ u ám thường thấy ở những phụ nữ Thái Lan, cặp mắt đen tuyền phảng phất nỗi buồn dường như đang nhìn xoáy vào chính bản thân mình, nơi mà một cuộc sống mới đang bắt đầu cựa quậy. 

Phachima lắc nhẹ đầu, xoã mớ tóc đen nhấp nhánh rồi hong nó trước làn gió nhẹ. Chỗ cô đứng là một khoảng đất nhỏ, được che phủ kín bằng những bụi cây và các cây đại thụ. Không một âm thanh nào có thể lọt ra khỏi đây. Trước mặt Phachima trải rộng tấm thảm cỏ xanh mướt, rậm rạp. 

Buổi chiều thật yên tĩnh. Bầu không khí như ngưng lại, không chuyển động. Thỉnh thoảng vẳng lại tiếng kêu khàn khàn của bầy cò cô độc. Tiếng đập cánh hung dữ của lũ cú bị đánh thức. Tiếng sóng vỗ oàm oạp và những con chuột đồng thi nhau ngụp lặn trong nước. Đâu đây xào xạc trong bụi cây, đám cỏ tiếng động của một loài thú nhỏ nào đó. Mùi hoa đồng nội, mùi cỏ và mùi đầm lầy xông lên thơm ngát. Phachima đột ngột có cảm giác cô độc, như bị lãng quên, dường như cô đang sống trong thời kỳ hỗn mang tiền sử, khi mà trái đất còn tràn ngập đầm lầy cùng bầy thú dữ gớm ghiếc.

Vì vậy tiếng gầm gừ nho nhỏ của con hổ mà Phachima bỗng nghe thấy chỉ làm tăng thêm ảo ảnh. Cho đến lúc con thú dữ rống lên, Phachima mới hiểu đó là thực tại. Cái đầu to tướng của nó nhô ra khỏi cỏ, nằm sát đất. U vai của nó cách cô gái khoảng 20 ácdơ. Mặt trời làm rõ ánh hung dữ trong cặp mắt vàng chăm chú. Đôi tai căng ra nghe ngóng. Con hổ quay đầu, khẽ gầm, lộ cái lưỡi đỏ hỏn với những chiếc răng vàng óng. 

Phachima cứng người vì sợ hãi trước cái nhìn sáng loáng của con thú hướng về cô. Sự im lặng bất ngờ trước khả năng hình dung của cô gái. Cô không dám nhúc nhích khỏi chỗ, đôi mắt dán chặt vào con thú. Con hổ, đến lượt mình, cũng lặng yên sửng sốt trước sự xuất hiện của con người. 

Phachima nhìn con hổ với sự khủng khiếp. Con thú ngắm nhìn lại cô với dáng vẻ nghi ngờ. Tiếng gầm gừ nhỏ dần và nó không lộ ý đồ tấn công cô gái. Lát sau, con thú bớt hẳn vẻ để ý đến cô. Những cái móng vuốt to lớn của nó cắm ngập sâu vào cỏ. Hình như không có điều gì làm con thú để ý, chỉ khi Phachima khẽ động đậy, ngay lập tức nó căng thẳng trở lại. Cặp mắt con hổ không sáng lóng lánh lên nữa mà bỗng thoáng buồn bã u uẩn, ngày một rõ hơn. Cô gái nhận ra sự thay đổi cảm xúc của con thú.

Hoàng hôn từ từ xuống. Mọi vật mờ nhạt dần, bao phủ một mầu xám xịt. Trời chuyển một cách rõ nét sang tối thẫm. Từ mặt sông, cất lên một làn sương khói kéo dài lê thê đến sát bờ. Lũ ve sầu kêu đinh tai và vẳng tiếng rít của bầy dơi báo tin màn đêm đang xuống. 

Sau này, Phachima nhớ lại, lúc đó một cảm giác mệt lữ xâm chiếm toàn bộ cơ thể. Cô run rẩy vì đói và suy sụp tinh thần. Con hổ không hề có ý định bỏ đi. Người thiếu phụ đặt tay lên bụng và cảm giác về một cơ thể sống đang tồn tại giẫy giụa bên trong. Điều đó dẫn cô đến một quyết định không kiềm chế nổi là phải chạy trốn. 

Phachima chăm chú nhìn vào con hổ đang lẫn dần vào bóng đêm và cảm thấy nó đang bắt đầu rời mắt khỏi cô. Cô gái chờ đợi, toàn thân căng ra, tràn ngập một sức lực chưa từng có. Bất ngờ, bằng một chuyển động tuyệt vọng, Phachima ngụp xuống và lặn cho tới sát đáy. Cô gái bơi tới bờ đối diện, nơi có cái làng nhỏ, và chỉ ngoi lên khi cảm thấy phổi sắp nổ tung vì thiếu không khí. Ở khoảng giữa con sông, cô gái đánh mất phương hướng, nhưng khi nghe tiếng gầm gừ, cô cảm thấy sợ hãi hơn khi ở bên con hổ. Cô bơi như điên cuồng bằng cả chân và tay cho đến khi nhìn thấy những ánh đèn dầu nhấp nhánh trong làng. 

Sau đó, bà mẹ Phachima đã tô điểm thêm nhiều chi tiết ly kỳ, rùng rợn vào câu chuyện, sự kinh hoàng bào trùm khắp làng. Những người đàn bà ôm chặt con vào lòng, chốt tất cả các cánh cổng và gào lên ầm ĩ rằng cánh đàn ông cần phải làm điều gì đó với con hổ giết người. Trai tráng trong làng còn mải mê chăn dắt lũ dê, bò, còn những người già ngồi chậm rãi nhai trầu và cố tìm hiểu tầm quan trọng của câu chuyện. 

Phachima mệt lả nằm trên cái chiếu lúc các bô lão trong làng kéo theo đám đông hiếu kỳ đến tìm cô để biết cụ thể địa điểm con hổ xuất hiện.  Bà mẹ cô lại có thêm dịp thêm thắt kể lể về những chi tiết của cuộc gặp gỡ của con gái mình với ông ba mươi.

Một cụ già với vẻ cương quyết của mình đã làm bà ta phải im miệng. Sau đó, ông ta bắt đầu hỏi Phachima. Cô gái trả lời ông một cách không hào hứng. Không hiểu sao, cô không muốn con hổ bị bắt và giết chết. Cụ già cau mày. Thánh Ala ! - Bà già thốt lên để lôi kéo sự chú ý - Chính thánh Ala bằng sự dịu dàng của mình đã cứu con gái tôi ra khỏi móng vuốt "ông ba mươi". Nói rồi bà giơ hai cánh tay nhăn nheo, nâu nhám lên trời. Ông già nhún vai.

- Cứ cho là như vậy đi - Ông ta nói - nhưng lần sau Ala có thể không có sự dịu dàng đó nữa. Không hay ho gì khi có một con hổ thèm thịt người rình rập quanh làng. Để giữ an toàn cho phụ nữ và trẻ nhỏ, chúng ta cần giết chết nó càng nhanh càng tốt. 

Ông già nhìn những người đàn ông đang trầm lặng và căng thẳng. Mỗi người trong họ đều biết rõ nguy hiểm như thế nào khi đi săn con hổ vào ban đêm, đặc biệt là ở bãi cỏ, nơi có ưu thế hơn về tấn công nhanh mà không phát ra tiếng động. 

- Thế nào? Người già hỏi.

Đám đàn ông im lặng dán mắt xuống nền nhà. Mặt cau lại, cụ già chuẩn bị mắng lũ đàn ông vì sự hèn đớn của họ thì Mamút với khẩu súng trên vai bước vào. Gương mặt chàng trai đỏ rực vì bị kích động.

- Cháu nghe tin Phachima suýt bị hổ vồ. Đúng không ạ? Anh ta sốt ruột hỏi. 

Trong khi ông già kể một cách ngắn gọn về câu chuyện, Mamút mân mê khẩu súng hai nòng với sự nôn nóng của khát vọng săn bắn bị đánh thức. 

- Cụ đã kể xong rồi - Mamút nói - Cần phải suy nghĩ về phụ nữ và trẻ em. Họ thật đáng thương và không thể rời nhà nửa bước. Nghĩa vụ của đàn ông chúng ta là phải bảo vệ họ. Ai sẽ đi với tôi? Tôi sẽ không phải là con trai của mẹ tôi nếu không mang xác nó về trước lúc bình minh. Nhưng tôi cần trợ thủ.

Sau phút dao động, chừng một chục đàn ông bị kích thích bởi những lời lẽ của Mamút và vinh quang của người thiện xạ, đã đồng ý ra đi. 

- Tuyệt - Mamút thốt lên - Tôi biết là các anh không phản bội tôi. 

Đám đàn ông ra đi. 

- Hãy nghe này, con gái - Mẹ Phachima nói khi khép cửa lại - Thằng Mamút này cũng dã man không kém con hổ. 

Phachima ngồi trên chiếu và ngắm trăng qua khung cửa sổ hẹp. Mặt trăng bị những chiếc lá cọ rung rinh cắt thành từng thỏi bạc. Xung quanh tràn ngập một thứ ánh sáng dịu dàng huyền diệu. Những người đàn ông gọi nhau bằng tiếng thầm thì lo lắng. Họ đã kết thúc công việc chuẩn bị cho chuyến đi săn. Phachima rầu rĩ nhìn theo họ. Thoáng cái, đám đàn ông mất hút, chỉ còn cây cối xám xịt với tiếng rì rào của đám lá sau từng trận gió. Phải căng tai ra, Phachima mới nghe thấy tiếng sóng vỗ nhè nhẹ xa vời của dòng sông.

Con hổ mà Phachima suy nghĩ về nó suốt chiều giờ đang ở đâu đó. Thật là tốt nếu nó bỏ đi xa và những người đi săn không theo kịp. 

- Ôi Ala - bà mẹ lầm bầm khi bỏ hạnh đào vào cối giã - Đêm nay là đêm của chết chóc. Hãy thử nghĩ về những người đang lần mò săn bắn con mãnh thú trong bóng tối. Nó ranh ma bằng một trăm con cáo và có thể xác định chính xác cự li trong bóng tối. Rồi con sẽ thấy, chưa hết đêm, trong xóm sẽ có tiếng khóc người chết. 

- Cũng có thể không cần động chạm đến con thú - Phachima nói, không rời cửa sổ. 

- Mày nói vớ vẩn cái gì thế? Bà già càu nhàu - Cần phải giết nó trước khi nó cắn chết chúng ta. Đành phải vậy.

- Có thể nó sẽ bỏ đi. 

- Nếu con hổ vào gần làng thì nó sẽ chẳng đi đâu cả khi chưa thực hiện được ý định- Bà già lẩm bẩm. 

- Ai mà chẳng biết hổ hay ăn thịt người thường lẩn quẩn gần làng.

- Nhưng con hổ này không thuộc loài ăn thịt người. Phachima nhắc lại.

Bà già không nói, chỉ khịt khịt mũi một cách khinh bỉ. 

- Con hổ chỉ cách con có 20 ácdơ và rất dễ vồ con. - Phachima nhận xét - Nhưng nó đã không làm gì cả. Tại sao? Mẹ có thể giải thích điều đó không? Con và nó theo dõi nhau. Lúc đầu, mắt nó cứ rực lên, rồi sau đó trở thành hiền lành và buồn bã. Nó nhìn con chẳng có vẻ gì là hung ác. 

- Đấy, con đang nói những điều ngu xuẩn hệt như bố con ngày xưa. Bà mẹ tức giận rũ mạnh hồ đào. Ông ấy tin rằng gió hát khe khẽ những bài ca. Lạy trời tha tội cho con, nhưng ngày còn sống, ông ấy giống hệt một tay đại gàn.

Phachima cau có nhìn qua cửa sổ và nghe ngóng. Làng xóm bao trùm một không khí im lặng chết chóc. Mỗi nhà như đang có tang.

Cô gái nhìn vào đêm tối sâu thẳm, cố gắng nghe lấy âm thanh nào đó.  Trái tim cùng nhịp với tiếng chày trong xóm. Bỗng nhiên trong người cô gái nhói lên cơn đau. Cô ôm chặt lấy bụng.

- Con làm sao thế, Phachima - Bà mẹ hỏi. 

- Không, có sao đâu - Cô gái lí nhí qua kẽ răng. 

- Ra khỏi chỗ gió lùa và nằm xuống

Phachima cảm thấy cơn đau lúc tăng lúc giảm. Cô nhắm mắt lại và một lần nữa thấy con hổ xuất hiện trước mắt. Cặp mắt nó thoạt tiên đỏ ngầu máu lóng lánh rồi sau đó trở nên mệt mỏi, yên ả, thoáng buồn bã. 

Bỗng một tiếng súng vang lên. Tiếng nữa. Phachima rùng mình như chính cô bị bắn. Giây lát vang lên tiếng rống của con hổ. Tiếng rống tràn ngập nỗi đau và tức giận. Tiếng kêu của con thú giẫy chết khá lâu,  trong một vài giây làm cô gái tê liệt. Cô dường như muốn trả lời lại tiếng kêu cứu đó. Gương mặt Phachima căng thẳng vì cơn đau, cơ thể vã mồ hôi. Từ trong lồng ngực phát ra tiếng rên rỉ: 

- Ối giời! - bà già kêu lên - Con ốm à? Sao thế? Đi nằm ngay.

- Mẹ, con chuyển dạ - Phachima thở hắt ra, thều thào.

Bà mẹ dìu đứa con ra chiếu, bắt nằm xuống.

- Thật là chọn đúng lúc để mà đẻ - Bà già lo lắng lẩm bẩm - Con cứ nằm đây, để mẹ đi nấu nước nóng. Chưa cần gọi bà đỡ làm gì khi bọn đàn ông chưa trở về. Thật không may cho mụ già này. 

Phachima nằm thiêm thiếp trên chiếu, mắt nhắm nghiền. Bà mẹ đun nước và lẩm bẩm điều gì đó. 

- Nghe này - Bỗng bà cụ bảo - Hình như mọi người đang trở về. Tao nghe thấy giọng họ. 

Trong làng văng vẳng tiếng thì thào băn khoăn của đàn ông và đàn bà.  Mụ già cẩn thận hé cửa, gọi ai đó. 

- Mamút cừ lắm, bác ơi - Một chú bé chạy vọt vào nhà - Anh ấy đã giết được con hổ rồi. Họ đang khênh nó về đây. Nó khỏe lắm, chống cự đến ghê! Trúng hai phát súng vẫn sống, sau đó người ta phải đâm chết nó bằng lao và mác. 

Phachima chăm chú nhìn chú bé. Mụ già không giấu được vẻ nôn nóng.

- Rồi sao nữa? 

- Khi giết con hổ xong, người ta nghe tiếng kêu nho nhỏ meo meo gần đấy. Soi đèn lên, hóa ra là ba con hổ con, bé tí tẹo, chưa mở mắt. . . Mamút bảo nó mới sinh được mấy tiếng. Con hổ mẹ đang che chở lũ hổ con. Mamút bảo hổ con bán rất được giá.

Phachima bắt đầu rên vì cơn đau. Trán lấm tấm mồ hôi.

- Mẹ - cô kêu lên. 

Mụ già đẩy chú bé về phía cửa: 

- Chạy đi gọi bà đỡ, mau! 

Đứa bé trố mắt, kêu ối chà ngạc nhiên, rồi chạy vụt đi gọi bà đỡ. 

NGUYỄN THIÊN VIỆT dịch
(Qua bản tiếng Nga)

(142/12-00)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.

  • BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.

  • JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).

  • KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...

  • MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.

  • YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.

  • MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!

  • AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.

  • HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.

  • OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979  những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.

  • NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.

  • OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.

  • BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.

  • RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

  • ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.

  • TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết.                                                                                                                 TSCH

  • JAMES JOYCELGT: James Joyce (1882 - 1941) là một trong những khuôn mặt lớn nhất của văn xuôi Anh - Ailen và châu Âu thế kỷ XX. Ông “là nhân vật trung tâm của văn xuôi hiện đại”, một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn nhất, gây phản ứng mạnh nhất, “một trong những thần tượng của thời đại” đối với văn nghệ sĩ trẻ và giới trí thức châu Âu đương thời.

  • A THÀNH L.T.S: "Vua cờ" (Kỳ vương) được đăng lần đầu trên tạp chí "Thượng hải văn học" năm 1984. Vừa xuất hiện, "Vua cờ" đã chấn động văn đàn, liên tiếp nhận được nhiều giải thưởng "Trung thiên tiểu thuyết ưu tú" ở cấp tỉnh và trung ương ở Trung Quốc. Tác giả A Thành tên thật là Chung A Thành sinh năm 1949 ở Tứ Xuyên. Đây là tác phẩm đầu tay của ông. Do khuôn khổ tờ báo, chúng tôi không thể in trọn tác phẩm nổi tiếng này khoảng gần 100 trang sách. Dưới đây là chương IV, chương cuối cùng của "Vua cờ".

  • ROBERT SWINDELLS (ANH)Nếu thế giới này bằng phẳng và nếu bạn có thể nhìn thẳng vào mặt trời đang mọc, bạn sẽ nhìn thấy miền đất nơi Nick và Bruin sinh sống. Nơi ban ngày ẩm nhoẹt còn ban đêm thì ngột ngạt ghê người, nơi mặt trời lên như kẻ thù và gió như muốn bốc cháy.

  • ALEXANDER VAMPILOV (NGA)Nikolai Nikolaevich Smirnov tin chắc là ông không sống được đến mùa xuân sang năm.