HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.
Ảnh: internet
Giả sử bạn vào nhà một cô bạn gái, bị con chó trong nhà sủa dữ quá. Cô bạn đó một mặt la chó, một mặt hỏi bạn nửa đùa nửa thật: - Bộ mới ăn thịt chó hay sao mà nó sủa dữ vậy?
Hỏi như thế là có ý cho rằng ăn thịt chó là điều không tốt. Nếu các cô gái Huế biết bạn trai của họ là loại người ăn thịt chó thì chắc là bạn ấy sẽ bị trừ điểm hạnh kiểm. Một ông thầy tu ăn thịt cá thì gọi là ngã mặn. Nhưng nếu sư ăn đến thịt chó - như Lỗ Trí Thâm trong truyện Thủy Hử chẳng hạn - thì thuộc đẳng cấp sư hổ mang. Thực ra ở Huế vẫn có người ăn thịt chó và cũng có nhà bị mất chó. Những người ăn thịt chó thường bị liệt vào hạng người không đàng hoàng đứng đắn. Ngay những người này có muốn ăn cũng tổ chức bữa nhậu một cách hạn chế. Không thể treo bảng hiệu “cầy tơ, cờ tây” hay bày bán thịt chó công khai bên đường như ở chợ ông Tạ trong thành phố Hồ Chí Minh. Nhà nào có nhiều chó con, ai xin thì cho chứ không bán. Ở Huế chưa thấy ai làm giàu nhờ nghề bán chó hay bán thịt chó. Hơn 80% gia đình đồng bào ở Huế có truyền thống văn hóa Phật giáo. Người ăn thịt chó rồi thì cảm thấy mình không được “tinh tấn”, không dám vào chùa lễ Phật. Theo tôi, nếu không phải khó khăn thiếu thốn quá thì đừng nói là ở Huế mà bất luận ở đâu cũng không nên ăn thịt chó. Chó là một con vật rất thông minh, tình cảm và trung thành với người. Dầu là con chó của người ăn mày cũng không vì chủ mình nghèo quá mà bỏ đi theo chủ khác. Ấy vậy mà con người trở mặt ăn thịt nó thì nói thật, mắc cỡ với tụi nó quá. Ngoài ra còn vấn đề vệ sinh thực phẩm. Có lần con chó nhà tôi bị bệnh “ca rê” (tiêu ra máu) mà chết, phải ném vào bô rác. Tôi vừa quay lưng đi đã thấy mấy người bụi đời nằm ở lề đường đến nhặt xác con chó đem đi. Sáng hôm sau thấy họ bày bán một rổ thịt chó bên lề đường. Ai bảo đảm trong các quán cầy tơ không có những con chó chết bị làm thịt theo kiểu đó?
Người Huế không chỉ kiêng ăn thịt chó mà còn kiêng nhiều thứ khác. Họ không ăn thịt trâu vì cho rằng thịt trâu “mát” hơn thịt bò. Không hiểu “mát” là sao và “mát” thì có gì không tốt? Không ăn thịt mèo vì thịt mèo “rủi”, ăn vào sẽ gặp chuyện bất lợi. Không ăn cá chép vì theo truyền thuyết, cá chép có thể vượt vũ môn để hóa rồng. Không ăn thịt rùa, ba ba vì nghe lời đồn rằng sau khi ăn thịt rùa, ba ba - trong vòng 3 tháng, lỡ ăn thêm rau sam thì thịt rùa sẽ sống lại trong bụng. Không ăn ếch vì khi làm thịt, hễ chặt đầu thì con ếch chắp hai tay lạy ngó thật tội nghiệp. Các loại cá rô, cá trê, cá lóc ngày thường thì ăn được nhưng ngày rằm nếu mua thì để thả lại xuống sông gọi là phóng sanh. Con lươn thì ăn được nhưng các bà đi chợ chỉ mua những con lươn cúi đầu. Con nào ngóc đầu lên như con rắn thì bị nghi là “lươn ngộ” (ngộ tức là ngộ độc) có nọc độc như nọc rắn, dĩ nhiên rắn là không nên ăn. Đặc biệt có giống rắn đầu đen cổ đỏ, thuộc loại rắn hiền, không có độc, gọi là rắn học trò. Xứ Huế rất trọng việc học và quý học trò nên cả loại rắn mang tên học trò cũng được “cưng”. Nếu gặp rắn học trò bò vào nhà thì chỉ lấy cây chổi đuổi ra chứ không bao giờ đánh đập. Cóc, nhái, chuột cũng không ăn vì gớm guốc.
Có nhiều thứ bị kiêng cữ do những kiến thức khoa học rất mơ hồ, chưa hề được kiểm chứng. Khi đau bụng không uống sâm vì có câu “Đau bụng uống nhân sâm tắc tử”. Không ăn hành (loại hành ta, củ đỏ) cùng với mật ong vì cho rằng mật ong ăn chung với hành thì chết. Tôi thường ăn bánh mì với cá hộp cùng hành ta xắt mỏng ngâm dấm, ăn xong uống một ly sữa pha mật ong vào buổi sáng. Như thế mật ong và hành ta cùng nằm chung trong bao tử. Ấy thế mà đâu có chết. Tương tự như thế, không biết dựa vào đâu mà họ cho rằng ăn khoai từ bị phong (bệnh cùi). Khi trong người có mụn nhọt làm mủ, nhiều người kiêng ăn những thứ có chất bột trắng như xôi, khoai mì, cho rằng những thứ này làm mủ sinh ra nhiều hơn. Sự thực cái chất mủ trắng trong mụt nhọt, vết thương là xác của bạch huyết cầu, đâu có liên quan gì với màu trắng của tinh bột trong xôi và khoai mì?
Ngoài ra còn có một danh mục kiêng cữ khác do tâm lý mê tín dị đoan. Học trò đi thi không ăn trứng gà, trứng vịt vì sợ điểm 0. Không ăn canh bí, canh mít vì sợ bí, làm bài không được, không ăn chuối vì sợ đạp vỏ chuối thi trượt. Tốt nhất là nên ăn các thứ có chữ “đậu”, hoặc ăn bún để làm bài suôn sẻ. Con gái thì dị ứng với món canh bầu vì ám ảnh của cái sự mang bầu. Còn đàn bà có bầu thì không ăn những thứ có cặp dính nhau như bánh giầy, giò chéo quảy và nhất là những trái chuối dính nhau vì sợ đẻ sinh đôi.
Sau này tôi có dịp đi đây đi đó nhiều nơi, trải qua nhiều cảnh sống thiếu thốn khắc nghiệt trong lao tù hay trong bưng biền, rừng núi. Lúc ấy mình không có điều kiện lựa chọn, miễn có thứ gì ăn đỡ đói là quý rồi. Với kinh nghiệm của một người tạp thực như tôi thì những món như rắn, cóc, ếch, nhái, chuột đồng… không những ăn được mà nếu biết chế biến cũng thành món ngon. Tuy vậy hễ về Huế thì cũng phải nhập gia tùy tục, đâu dám bạ chi ăn nấy.
Nói tới văn hóa ẩm thực, người ta thường bàn về những món ngon, nên ăn. Theo tôi cả những món thuộc hệ thống kiêng cữ không nên ăn nói trên cũng thuộc phạm trù văn hóa ẩm thực mang đậm nét nhân văn của xứ Huế. Sự kiêng cữ ấy tất nhiên có cái hay cái dở nhưng rất gần gũi với câu tục ngữ: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”.
H.P.N.P
(SH288/02-13)
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!