LTS: Trong 24 bài trong tập Cỏ dại của nhà văn Lỗ Tấn do GS. Trần Đình Sử dịch, Sông Hương số tháng 10 năm 2011 đã giới thiệu đến bạn đọc 3 bài “Sau khi chết”, “Sự giã từ của cái bóng” và “Sự run rẩy trên đường đồi bại”. Kỳ này Sông Hương xin giới thiệu tiếp với bạn đọc 4 bài chọn lọc từ Cỏ dại.
Văn hào Lỗ Tấn - Ảnh: internet
LỖ TẤN
Đêm thu
Vườn sau nhà tôi ngoài tường có thể nhìn thấy hai cây, một cây là táo, còn một cây nữa cũng là táo.
Bầu trời đêm trên vườn kì lạ mà lại cao, đời tôi chưa hề thấy bầu trời kì lạ mà lại cao như thế bao giờ, nó có vẻ như là đang rời bỏ nhân gian mà đi, khiến cho mọi người có ngửa mặt lên nhìn cũng không còn thấy nữa. Ấy thế mà giờ đây nó lại vô cùng xanh, long lanh mấy chục ngôi sao đang nhấp nháy, lạnh nhạt. Trên khóe miệng nó hiện ra nụ cười, tựa hồ như tự cho mình là thâm thúy, rồi đem sương dày rắc trên hoa và cỏ dại trong vườn của tôi.
Tôi không biết những hoa cỏ dại ấy gọi là gì, người ta gọi chúng bằng những tên gì. Tôi nhớ có một loài hoa nở những đóa hoa phớt hồng cực bé, bây giờ vẫn còn nở, nhưng nhỏ bé hơn trước nhiều. Trong hơi đêm lạnh lẽo này, nó xo ro nằm mơ, mơ thấy mùa xuân đến, mơ thấy mùa thu đến, mơ thấy nhà thơ gầy nhỏ nước mắt lên cánh hoa ngoài cùng của nó, bảo nó rằng, mùa thu tuy đến, mùa đông tuy đến, nhưng sau đó tiếp theo là mùa xuân, bướm sẽ tung bay, ong mật sẽ hát bài ca xuân. Thế là đóa hoa mỉm cười, tuy màu sắc đỏ lạnh đến tội nghiệp, và vẫn xo ro.
Cây táo hầu như đã rụng hết lá. Trước đó còn có mấy đứa bé đến chọc những quả táo mà người ta hái còn sót lại, bây giờ thì chẳng còn quả nào, đến cả lá cũng rụng hết. Nó biết giấc mơ của đóa hoa phớt hồng, sau mùa thu là mùa xuân. Nó cũng biết giấc mơ của lá rụng, sau mùa xuân là mùa thu. Nó hầu như đã rụng hết lá, chỉ còn trơ lại cành không, nhưng sau khi thoát khỏi cái hình vòng cung mang đầy lá và quả, nó được thoải mái vươn mình. Nhưng còn mấy cành lại oằn thấp xuống che đỡ những vết thương do sào chọc táo đâm phải, còn mấy cành thẳng nhất, dài nhất thì lại lặng lẽ như sắt đâm thẳng lên bầu trời kì lạ mà lại cao, khiến bầu trời lấp lánh chớp mắt; chúng đâm thẳng lên mặt trăng đầy đặn trên trời, khiến mặt trăng quýnh lên, mặt trắng bệch.
Bầu trời chớp mắt lại càng xanh hơn, không yên, tựa như là muốn rời bỏ nhân gian, né tránh cây táo, chỉ để mặt trăng lại. Ấy thế nhưng mặt trăng cũng len lén nấp về phía đông. Thế mà cái cành cây trơ trụi vẫn cứ lặng lẽ như sắt đâm thẳng lên bầu trời kì lạ mà lại cao, cứ một mực đẩy nó vào chỗ chết, bất chấp nó nhấp nhánh bao nhiêu đôi mắt quyến rũ với đủ các kiểu.
“Òa” một tiếng, một con chim ác ăn đêm bay qua.
Tôi bỗng nghe thấy tiếng cười nửa đêm, “xì xì” tựa hồ như không muốn đánh thức những người đang ngủ, thế nhưng không khí bốn bề xung quanh lại đều cười họa theo. Nửa đêm, chẳng có ai khác, tôi tức khắc nhận ra âm thanh ấy chính là phát ra từ miệng của tôi, tức khắc tôi cũng bị tiếng cười ấy xua đuổi, trở về phòng của mình. Bấc đèn cũng tức khắc được tôi vặn cao lên.
Mặt kính trên cửa sổ phía sau nghe tách tách, có nhiều con trùng nhỏ bay đập. Không bao lâu, có mấy con lọt vào, có lẽ là chui từ chỗ rách của tờ giấy dán cửa sổ. Chúng vừa vào bèn bay đập tách tách trên chụp đèn pha lê. Một con bay đập từ phía trên, thế là nó gặp phải ngọn lửa, mà tôi thì cho rằng đó là ngọn lửa thật. Hai ba con khác thì dừng lại nghỉ và thở trên giấy chụp đèn. Đó là chụp đèn mới thay tối qua, giấy trắng bạch, đường gấp theo hình sóng, trên một góc còn có vẽ một cành dành dành đỏ chót. Khi cây dành dành nở hoa đỏ chót thì cây táo lại mơ thấy giấc mơ của đóa hoa nhỏ phớt hồng, cành lá xanh um uốn cong thành hình cánh cung. Tôi lại nghe thấy tiếng cười nửa đêm. Tôi vội vàng dập tắt mối tâm tư của mình, nhìn con côn trùng xanh đang đậu mãi trên chụp đèn, đầu to, đuôi nhỏ, tựa như hoa hướng dương, chỉ to bằng nửa hạt lúa mạch, màu sắc toàn thân xanh biếc rất đáng yêu, đáng thương.
Tôi ngáp, châm một điếu thuốc, thở khói ra nhìn ngọn đèn, lặng lẽ tôn kính các anh hùng bé nhỏ xanh biếc ấy.
Trả thù
Da con người ta dày bất quá nửa phân, máu nóng tươi thắm chảy bên dưới nó, cuồn cuộn chảy trong mạng huyết quản còn dày đặc hơn cả sự dày đặc của đám sâu hòe tầng tầng lớp lớp bò trên bức tường, tỏa ra hơi ấm. Thế là mọi người đem cái hơi ấm ấy mà khêu gợi nhau, khích động nhau, lôi kéo nhau, cố sức để dựa vào nhau, hôn nhau, ôm nhau, mong cầu được niềm vui lớn đắm say của sự sống.
Nhưng nếu dùng một lưỡi dao sắc nhọn, chỉ đâm một cái, xuyên qua lớp da hồng đào mỏng manh ấy thì sẽ thấy máu nóng hồng tươi kia vọt ra như tên tắm đẫm kẻ giết người bằng cái nóng trực tiếp. Tiếp đó là cho ra hơi thở lạnh băng, cho thấy đôi môi trắng nhợt, khiến cho tính người tê dại, nhận được niềm vui sướng tột cùng của sự sống bay bổng; còn bản thân người ấy thì mãi mãi đắm chìm vào niềm vui lớn tột cùng của sự sống bay bổng.
Như thế cho nên có hai người lõa lồ toàn thân, tay cầm dao sắc đứng đối diện nhau trên cánh đồng vắng mênh mông.
Hai người đó sắp ôm nhau, sắp giết nhau…
Người qua đường từ bốn phía túa lại, tầng tầng lớp lớp, như đám sâu hoè bò trên tường, như bầy kiến xúm nhau lại khiêng mẩu cá khô. Áo quần họ đẹp đẽ, nhưng tay không. Thế mà từ bốn phía túa lại, mà lại đều cố sức vươn dài cổ ra, để thưởng thức cuộc ôm nhau hay giết nhau ấy. Họ đã cảm thấy trước cái vị tươi của mồ hôi hoặc máu trên đầu lưỡi mình sau khi việc ấy xảy ra.
Thế nhưng hai người đứng đối diện nhau, trên cánh đồng vắng bao la, toàn thân loã lồ, tay cầm dao sắc, thế mà họ lại không ôm nhau, cũng không giết nhau, cũng chẳng có ý ôm nhau hoặc giết nhau.
Họ cứ đứng như thế cho đến vĩnh viễn, những thân thể đầy đặn đã dần dần khô kiệt, thế mà vẫn không có ý định ôm nhau hay giết nhau.
Người qua đường bèn cảm thấy chán ngắt, cảm thấy nỗi chán chường chui vào trong từng lỗ chân lông, rồi cảm thấy cái chán ngấy từ trong trái tim chui qua lỗ chân lông mà thoát ra ngoài, bò trên cánh đồng vắng, rồi lại chui vào lỗ chân lông người khác. Thế là họ cảm thấy lười và họng khô rát, cổ vươn đã mỏi, cuối cùng mặt nhìn mặt, họ từ từ tản đi. Thậm chí còn cảm thấy khô khan đến mức mất hết sinh thú nữa!
Thế là chỉ còn lại có cánh đồng vắng mênh mông, còn hai người toàn thân loã lồ, tay cầm dao sắc, đứng khô kiệt, đem ánh mắt như người chết mà thưởng thức cái khô kiệt của bọn qua đường, một cuộc chém giết không đổ máu, thế mà mãi mãi đắm chìm trong niềm vui sướng lớn tột cùng của sự sống bay bổng.
Lập luận
Tôi mơ thấy mình đang ở trong lớp tiểu học chuẩn bị làm văn, xin thầy dạy cho phương pháp lập luận.
“Khó!”- thầy đưa mắt ra ngoài đôi kính, nhìn tôi, nói - “Thầy kể cho em một chuyện:
Có một nhà sinh một đứa con trai. Cả nhà vui mừng khôn xiết. Khi đứa bé đầy tháng, người ta bế ra cho khách xem, có lẽ là muốn nhận được điều may.
Một người nói: đứa bé này sau này sẽ phát tài, thế là anh ta nhận được một hồi cảm tạ.
Một người nói: đứa bé này tương lai sẽ làm quan, thế là anh ta nhận được một câu lấy lòng.
Một người nói: đứa bé này tương lai sẽ chết, thế là anh ta bị mọi người hợp sức đánh cho một trận đau.
Nói sẽ chết là tất yếu, nói phú quý là dối trá. Nhưng nói dối trá thì được báo đáp tử tế, nói tất yếu thì bị đánh đau. Em…”.
“Em muốn không phải nói dối mà cũng không phải bị đánh đau, vậy thì thưa thầy, em phải nói như thế nào?”
“Vậy thì em phải nói: Ôi cha, đứa bé này, kìa xem, thật là… chậc, chậc, hà hà, hehe! He, hehehehe!”
Hy vọng
Lòng tôi vô cùng vắng vẻ.
Vậy mà lòng tôi rất bình yên: không có yêu ghét, không có buồn vui, cũng không có màu sắc và thanh âm.
Có lẽ tôi già rồi. Tóc tôi đã bạc trắng, chẳng phải là sự thực hiển nhiên sao? Tay tôi run rẩy, không phải là sự thực rõ ràng sao? Vậy thì bàn tay trong tâm hồn tôi chắc cũng run rẩy rồi, đầu tóc của nó cũng bạc rồi.
Thế nhưng đó là việc của nhiều năm trước.
Trước đó lòng tôi cũng từng ngập tràn tiếng ca tanh máu; máu và sắt, lửa và độc, khôi phục và báo thù. Rồi đột nhiên những thứ ấy đều trống không, nhưng có lúc cố ý lèn vào một thứ hy vọng bất đắc dĩ để tự dối mình. Hy vọng, hy vọng, đem đến cái khiên hy vọng mà chống đỡ cuộc tập kích của đêm tối trong trống không, tuy rằng sau cái khiên vẫn là đêm tối trong trống không. Nhưng mặc dù là vậy, cũng dần tiêu ma mất tuổi trẻ của tôi.
Lẽ nào trước đây tôi không biết rằng tuổi trẻ của tôi đã mất? Nhưng tôi cho rằng tuổi trẻ ngoài tôi vẫn còn: các vì sao, ánh trăng, bươm bướm buông mình, hoa trong tối, lời không lành của chim cú mèo, chim đỗ quyên khóc chảy máu, nụ cười mơ hồ, tình yêu bay lượn… Tuy là một tuổi trẻ buồn lạnh, mịt mù, nhưng vẫn là tuổi trẻ.
Vậy mà giờ đây vì sao lại vắng vẻ thế? Lẽ nào cả tuổi trẻ ngoài tôi cũng đã mất rồi, tuổi trẻ trên đời cũng phần nhiều già yếu rồi?
Tôi đành phải một mình vật lộn với đêm đen trong trống không. Tôi đặt cái khiên hy vọng xuống. Tôi nghe bài ca Hy vọng của Sandor Petofi (1823 - 1849):
“Hy vọng là gì, là ả gái điếm:
Ai cũng quyến rũ, ai cũng dâng mời
Chờ đến khi anh tiêu hết cái quý báu nhất đời
Là tuổi trẻ - cô ả liền bỏ anh”
Nhà thơ trữ tình vĩ đại ấy, nhà yêu nước Hunggari, vì Tổ quốc mà chết trên mũi dao nhọn của lính Côdắc, đã 75 năm rồi. Buồn thay cái chết! Nhưng buồn hơn là thơ ca ông vẫn chưa chết!
Nhưng cuộc đời thật đáng thương! Anh hùng kiên dũng như Petofi cũng đành dừng bước trước đêm tối, nhìn lại phương Đông mịt mù. Ông nói:
Tuyệt vọng mà thành trống không thì cũng giống như là hy vọng. Nếu tôi còn phải sống trộm trong cõi trống không không sáng không tối này thì tôi còn phải tìm cái tuổi trẻ buồn lạnh, mịt mù đã mất ấy, nhưng không ngại tìm ngoài thân tôi. Bởi vì tuổi trẻ bên ngoài nếu mà đã chết, thì sự già lão trong tôi cũng lập tức điêu linh.
Thế nhưng bây giờ không có sao và ánh trăng, không có bướm buông cánh và cả nụ cười mờ mịt, tình yêu bay múa. Vậy mà cánh trẻ tuổi rất bình yên.
Tôi đành phải một mình vật lộn với đêm đen trong trống không này, cho dù không tìm được tuổi trẻ ngoài tôi, cũng phải tự mình ném phăng cái già lão trong mình. Nhưng đêm đen lại nằm ở đâu? Giờ đây không có sao, không có ánh trăng, cả nụ cười mù mịt, tình yêu bay múa; cánh trẻ tuổi rất bình yên, mà trước mặt tôi đến nỗi không có cả cái đêm tối thật.
Tuyệt vọng mà thành trống không.
Thì cũng giống như là hy vọng.
Trần Đình Sử dịch
(SH294/08-13)
HANS CHRISTIAN ANDERSON
Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.
George Saunders - Franz Kafka
Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
Dương Đức dịch và giới thiệu
Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.
AMOS OZ
Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.
ALBERTO MORAVIA
KATHERINE MANSFIELD (Anh)
Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.
Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).
Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.
MARK TWAIN
M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.
L. TOLSTOY
Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).
VẠN CHI (Trung Quốc)
Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.
Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.
Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.
SAKI
1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.
Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.
Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.
NAGUIB MAHFOUZ
Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.
Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.
Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.
Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.