Chút tâm tình với "Trà thiếu phụ"

09:55 16/06/2009
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

Nhà văn Hồng Nhu

Sau tập truyện ngắn "Lễ hội ăn mày", nhà văn Hồng Nhu đã một lần nữa tìm lại chính mình trong "Trà thiếu phụ". Với 9 truyện ngắn, tập truyện "Trà thiếu phụ" dày 200 trang, khổ 13x19 đã đưa lại cho độc giả yêu mến văn học những phút giây thư thái tâm hồn. Có thể nói, với nhà văn Hồng Nhu thì được viết đó là một diễm phúc lớn lao trong suốt cuộc đời cầm bút. Với một chiếc xe đạp, ông đã đi và quan sát được thật nhiều, thu vào tầm ngắm của mình một lượng kiến thức cuộc sống bổ ích. Trong một lần trò chuyện với nhà văn Hồng Nhu, ông đã rất thân tình "Kinh nghiệm viết văn thì khó có thể nói được bằng lời, nhưng thời gian chú viết, chú vừa học vừa viết, vừa tự biên tập bài cho riêng mình, nếu không bằng lòng là chú bỏ ngay truyện ngắn ấy, dẫu đã cất công rất nhiều, trăn trở rất nhiều". Trong cuộc sống hiện đại, ít ai tự ngồi lại chiêm nghiệm bản thân và tự đánh giá mình như thế, chắc cũng vì thế mà nhà văn Hồng Nhu đã cho ra đời không ít tác phẩm nổi tiếng trên diễn đàn Văn học hiện đại.

Trong "Trà thiếu phụ", người đọc tìm thấy một nét riêng biệt của nhà văn đó là cách xâm nhập cuộc sống. Nhiều đoạn văn rất mượt nhưng cũng có không ít đoạn văn khúc khuỷu, dẫn dắt người đọc vào một thế giới cổ tích. Cổ tích thời hiện đại thì mới có "Chuyện ông Âu "gả vợ" cho người chủ thuyền buôn xứ Quảng chẳng mấy chốc đã lan truyền cả dải làng cát dằng dặc chạy theo ven biển xứ Thuận. Người ta khen ngợi rằng: ông Âu quả thật nhân đức cao dày, đã không kết tội người vợ trẻ lại còn chia một phần ba gia tài cho bà ta nữa. Rồi cho phép bà ta tháng tháng năm năm đi lại thăm nom mấy đứa con trai dòng họ Âu tại làng cát. Chao! Người đời mấy ai như vậy? Lại có người chê trách: ông Âu dại khờ, nhu nhược. Con vợ hai đó, dù nó trẻ đẹp đến mấy mà hư thân mất nết, theo trai, đã không gọt đầu bôi vôi thì thôi, lại còn mở đường cho nó chạy. Mà nó chạy đi đâu? Nó chạy đi với cái thằng bỏ bùa mê, thuốc lú nó; chúng nó sống với nhau hú hí sung sướng trước mặt mình mới tức chứ!..." (Bao nhiêu là cát - "Trà thiếu phụ"- tr 30)

Khi mở tập sách ra, người đọc sẽ nhận thấy một chút gì đó rất mặn mòi như nước mắt. Tự dưng dòng chảy từ phía trái tim nhà văn Hồng Nhu đã đi đến tận cùng nỗi đau cùng với những tâm hồn đồng cảm. Khi viết về tình yêu đôi lứa, nhà văn Hồng Nhu có một cách thể hiện riêng. Khó có thể tìm thấy đoạn nào trong tập truyện "Trà thiếu phụ" tả về tình yêu. Duy chỉ có một điều là cái hồn trong ngôn ngữ văn học của nhà văn Hồng Nhu được vận dụng, xâu chuỗi và toát lên điều cần thể hiện. Chỉ một ánh mắt buổi đầu gặp gỡ mà Đường đã yêu Khánh - người hơn anh khá nhiều tuổi, đã có một lần sang ngang và rồi Văn hiểu ra rằng, hàng xóm thì chỉ ngồi với nhau một đoạn trên chuyến tàu cũng đủ rung động con tim mất rồi. Cái biến thể trong phong cách kể chuyện tả thực của nhà văn Hồng Nhu đã đưa người đọc về với những miền thẳm sâu trong lòng người. Nơi bắt nguồn của bao nhiêu sóng gió cũng không thể bào mòn được nếp nhăn trên vầng trán của ông già thiếu tá công an về hưu trong truyện "Láng giềng". Đó là một sợi dây mắt xích kết dính giữa những người không họ hàng thân thích, của những người gọi là "Bán anh em xa, mua láng giềng gần". Trong xóm phố, nhà nhà san sát bên nhau thì không vì cái này thì cái kia cũng va chạm. Ít nhiều thì người ta cũng không cắt nghĩa được vì sao sau bao năm chung sống, ông Thậm lại quyết định đi bước nữa với bà Ái.

Trong cách viết của nhà văn Hồng Nhu thì cuộc sống vốn dĩ là bức tranh muôn màu, muôn cung bậc đa thanh, chúng dồn đẩy và luôn va chạm nhau. Đó là một anh chàng Hoà đã có một tình yêu đắm say từ thời thơ ấu với cô Thuý đẹp yêu kiều nhưng để có được hạnh phúc, Hoà đã trở thành thủ phạm, tạt axít vào Thuý - nói như cách Hoà nhận tội với ông đại uý Nhâm thì mục đích của anh làm như vậy để Thuý là duy nhất của mình. Để người khác không lấy mất Thuý của anh. "Đêm hạ huyền yên tĩnh" là truyện ngắn cảm động của nhà văn Hồng Nhu viết về tình yêu đôi lứa. Hầu như suốt chiều dài của truyện ngắn này, nhà văn luôn tự an ủi nhân vật của mình rằng nếu có gây ra chuyện gì trọng tội thì gắng sám hối - đó là cách tốt nhất để niềm tin còn trong cuộc đời này. Kết thúc câu chuyện tình có một không hai này là hình ảnh chiếc thiệp mời đám cưới có lồng hai chữ H và T. Tình yêu và hôn nhân không phải nói đến là đến được mà mọi người đều phải thử thách, không ít thì nhiều. Nhưng đặt vào trường hợp của Hoà và Thuý trong truyện ngắn "Đêm hạ huyền yên tĩnh" thì liệu mấy ai làm được như thế.

Trở lại trong cách viết tả thực của nhà văn Hồng Nhu, người đọc có thể nhận ra giữa những va chạm thực tế trong cuộc sống, không có cái gì đến một cánh bằng phẳng nhưng cũng không phải như thế người ta mất đi niềm tin, mất đi hi vọng. Trong cách kể của nhà văn Hồng Nhu, cuộc sống cũng như mọi sinh hoạt hàng ngày của người dân xóm nhỏ nơi Văn về ở - chỗ ngày xưa là nghĩa địa hoang vu ấy - đã trở thành một xóm nhỏ đầy ắp tình người. Người đọc sẽ bắt gặp không ít thì nhiều những nỗi niềm lắng đọng của nhà văn khi để cái tôi trữ tình của mình đi dọc trang viết. Người ấy đi lặng lẽ nhưng bước đi chắc chắn và khoẻ. Cũng như khi ông cho nhân vật mình chạy từ hiện đại về quá khứ với sự hồi sinh trong lịch sử thời đại. Truyện ngắn "Mùa cau ấp bẹ" đem lại cho người thưởng thức một vở kịch có nhiều nhân vật đan lồng quá khứ và hiện tại để bứt ra khỏi không gian riêng - mùa cau ngát hương ở một ngôi làng hoạt động cách mạng trong lòng địch những năm 1945. "Mùa cau ấp bẹ" giống như một bộ phim quay rất kỹ từng trường đoạn, khắc hoạ kỹ tính cách từng nhân vật. Trong lối hành văn của nhà văn Hồng Nhu, người đọc dễ nhận ra những kinh nghiệm thực tế mà ông cố đúc gắn vào tác phẩm. Nhân vật trong "Mùa cau ấp bẹ" hiện lên như một khối tình chung ấy của cả dân tộc mà tình yêu đôi lứa như một sức mạnh ngấm ngầm đưa con người vượt qua mọi gian khó, mọi nỗi sầu muộn và những mất mát... Dưới ngòi bút của nhà văn Hồng Nhu, nhân vật hiện lên theo tuyến trực diện, ít có tính cách đối chọi nhau mà chung nhau quan niệm sống, quan niệm sáng tạo.

Nếu không phải người nếm trải thì nhà văn Hồng Nhu đã không viết thành công truyện ngắn "Trà thiếu phụ". Đó là câu chuyện cảm động về hai bố con ông Kiệm và "mối tình" với Thuận - một cô giáo vùng cao. Sự từng trải trong cuộc đời đã cho phép ông Kiệm nhắn nhủ với con trai mình rằng: "Hình như con..." nghĩa là ông hiểu con trai mình đã để ý đến cô giáo Thuận. Trên vùng cao ấy, thời tiết đầu đông không làm không khí trở lạnh mà tự họ, hơi ấm tình người đã trở về bên ấm trà Bắc Thái đậm đặc, bên những đồi chè xanh mướt bạt ngàn. Trong cách viết của nhà văn Hồng Nhu, cuộc sống được thắt nút - mở nút tự nhiên như chính nụ cười hay việc Thuận lấy tay khép lại đôi tà áo trong gió mùa đông. Cuộc sống của bố con nhà ông Kiệm và bà con xóm bản đã được nhà văn cắm từng mốc thời gian. Như một sự tình cờ, khi người ta tự triết lý về một điều gì đó trong cuộc sống, nghĩa là người ta đã tự mình cho phép bản thân bộc lộ hết suy nghĩ của mình. Ông Kiệm cũng yêu con người của cô giáo Thuận, cũng đã "để lộ thân phận" của mình cho Thuận biết, nhưng khi nghĩ đến từng ánh mắt, cử chỉ của người con trai, ông đã nhận ra mọi việc mới bắt đầu. Tình yêu cũng giống như cuộc sống, vợ chồng ông Kiệm đã ly hôn chỉ vì một lý do nhiều người không tin được:

"Họ tốt với nhau quá nên không thể chung sống với nhau. Nếu tiếp tục, họ sẽ không còn tốt với nhau được nữa, ngay cả chính bản thân họ, cháu à! Song chuyện gì cũng phải có cái cớ. Cháu biết không, đứa con gái giữa không phải con ruột của ông chồng; và đứa con gái út cũng vậy, không phải con ruột của bà vợ..." (Trà thiếu phụ -tr 39). Đó chính là lý do mà ông Kiệm về sống với con trai, bắt đầu một cuộc đời mới nơi đây. Thuận cảm thông được hoàn cảnh của ông Kiệm khi được ông trút bầu tâm sự. Nhưng có lẽ chính con trai ông Kiệm đã lại một lần nữa thức tỉnh trái tim cô. Và tình yêu. Có lẽ thế nên ông Kiệm mới triết lý với con mình "Con biết không? Hồi xưa các cụ nhà ta sành sỏi cũng đã nói rồi! Rằng trà có nhiều nước. Nước đầu là "Nước thiếu nữ". Thanh khiết, ngào ngạt. Nước thứ hai là "Nước thiếu phụ". Đượm đà, ngào ngạt, sâu thẳm. Đấy mới là nước ngon nhất trong một ấm trà. Dư vị trong cổ họng cứ đọng hoài đọng mãi... không tan. Con có biết không, Toàn?"

Về với cuộc sống trong "Trà thiếu phụ", không ít thì nhiều, người đọc cũng thưởng thức được hương vị quê hương qua ngôn ngữ nhà văn. Một tập truyện ngắn độc đáo là tập truyện ngắn mang ý nghĩa nhân văn cao cả. "Trà thiếu phụ" phần lớn đã đáp ứng được yêu cầu khắt khe ấy từ độc giả. Như một lời độc thoại khi người ta cầm lên và đọc tập truyện "Trà thiếu phụ", cuộc đời hiện lên trên trang viết thật phong phú và đa dạng. Đó là nhân cách sống của một người cầm bút, nhà văn Hồng Nhu.

Huế, tháng 6/2003
N.T.A.Đ
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.