Chút tâm tình với "Trà thiếu phụ"

09:55 16/06/2009
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

Nhà văn Hồng Nhu

Sau tập truyện ngắn "Lễ hội ăn mày", nhà văn Hồng Nhu đã một lần nữa tìm lại chính mình trong "Trà thiếu phụ". Với 9 truyện ngắn, tập truyện "Trà thiếu phụ" dày 200 trang, khổ 13x19 đã đưa lại cho độc giả yêu mến văn học những phút giây thư thái tâm hồn. Có thể nói, với nhà văn Hồng Nhu thì được viết đó là một diễm phúc lớn lao trong suốt cuộc đời cầm bút. Với một chiếc xe đạp, ông đã đi và quan sát được thật nhiều, thu vào tầm ngắm của mình một lượng kiến thức cuộc sống bổ ích. Trong một lần trò chuyện với nhà văn Hồng Nhu, ông đã rất thân tình "Kinh nghiệm viết văn thì khó có thể nói được bằng lời, nhưng thời gian chú viết, chú vừa học vừa viết, vừa tự biên tập bài cho riêng mình, nếu không bằng lòng là chú bỏ ngay truyện ngắn ấy, dẫu đã cất công rất nhiều, trăn trở rất nhiều". Trong cuộc sống hiện đại, ít ai tự ngồi lại chiêm nghiệm bản thân và tự đánh giá mình như thế, chắc cũng vì thế mà nhà văn Hồng Nhu đã cho ra đời không ít tác phẩm nổi tiếng trên diễn đàn Văn học hiện đại.

Trong "Trà thiếu phụ", người đọc tìm thấy một nét riêng biệt của nhà văn đó là cách xâm nhập cuộc sống. Nhiều đoạn văn rất mượt nhưng cũng có không ít đoạn văn khúc khuỷu, dẫn dắt người đọc vào một thế giới cổ tích. Cổ tích thời hiện đại thì mới có "Chuyện ông Âu "gả vợ" cho người chủ thuyền buôn xứ Quảng chẳng mấy chốc đã lan truyền cả dải làng cát dằng dặc chạy theo ven biển xứ Thuận. Người ta khen ngợi rằng: ông Âu quả thật nhân đức cao dày, đã không kết tội người vợ trẻ lại còn chia một phần ba gia tài cho bà ta nữa. Rồi cho phép bà ta tháng tháng năm năm đi lại thăm nom mấy đứa con trai dòng họ Âu tại làng cát. Chao! Người đời mấy ai như vậy? Lại có người chê trách: ông Âu dại khờ, nhu nhược. Con vợ hai đó, dù nó trẻ đẹp đến mấy mà hư thân mất nết, theo trai, đã không gọt đầu bôi vôi thì thôi, lại còn mở đường cho nó chạy. Mà nó chạy đi đâu? Nó chạy đi với cái thằng bỏ bùa mê, thuốc lú nó; chúng nó sống với nhau hú hí sung sướng trước mặt mình mới tức chứ!..." (Bao nhiêu là cát - "Trà thiếu phụ"- tr 30)

Khi mở tập sách ra, người đọc sẽ nhận thấy một chút gì đó rất mặn mòi như nước mắt. Tự dưng dòng chảy từ phía trái tim nhà văn Hồng Nhu đã đi đến tận cùng nỗi đau cùng với những tâm hồn đồng cảm. Khi viết về tình yêu đôi lứa, nhà văn Hồng Nhu có một cách thể hiện riêng. Khó có thể tìm thấy đoạn nào trong tập truyện "Trà thiếu phụ" tả về tình yêu. Duy chỉ có một điều là cái hồn trong ngôn ngữ văn học của nhà văn Hồng Nhu được vận dụng, xâu chuỗi và toát lên điều cần thể hiện. Chỉ một ánh mắt buổi đầu gặp gỡ mà Đường đã yêu Khánh - người hơn anh khá nhiều tuổi, đã có một lần sang ngang và rồi Văn hiểu ra rằng, hàng xóm thì chỉ ngồi với nhau một đoạn trên chuyến tàu cũng đủ rung động con tim mất rồi. Cái biến thể trong phong cách kể chuyện tả thực của nhà văn Hồng Nhu đã đưa người đọc về với những miền thẳm sâu trong lòng người. Nơi bắt nguồn của bao nhiêu sóng gió cũng không thể bào mòn được nếp nhăn trên vầng trán của ông già thiếu tá công an về hưu trong truyện "Láng giềng". Đó là một sợi dây mắt xích kết dính giữa những người không họ hàng thân thích, của những người gọi là "Bán anh em xa, mua láng giềng gần". Trong xóm phố, nhà nhà san sát bên nhau thì không vì cái này thì cái kia cũng va chạm. Ít nhiều thì người ta cũng không cắt nghĩa được vì sao sau bao năm chung sống, ông Thậm lại quyết định đi bước nữa với bà Ái.

Trong cách viết của nhà văn Hồng Nhu thì cuộc sống vốn dĩ là bức tranh muôn màu, muôn cung bậc đa thanh, chúng dồn đẩy và luôn va chạm nhau. Đó là một anh chàng Hoà đã có một tình yêu đắm say từ thời thơ ấu với cô Thuý đẹp yêu kiều nhưng để có được hạnh phúc, Hoà đã trở thành thủ phạm, tạt axít vào Thuý - nói như cách Hoà nhận tội với ông đại uý Nhâm thì mục đích của anh làm như vậy để Thuý là duy nhất của mình. Để người khác không lấy mất Thuý của anh. "Đêm hạ huyền yên tĩnh" là truyện ngắn cảm động của nhà văn Hồng Nhu viết về tình yêu đôi lứa. Hầu như suốt chiều dài của truyện ngắn này, nhà văn luôn tự an ủi nhân vật của mình rằng nếu có gây ra chuyện gì trọng tội thì gắng sám hối - đó là cách tốt nhất để niềm tin còn trong cuộc đời này. Kết thúc câu chuyện tình có một không hai này là hình ảnh chiếc thiệp mời đám cưới có lồng hai chữ H và T. Tình yêu và hôn nhân không phải nói đến là đến được mà mọi người đều phải thử thách, không ít thì nhiều. Nhưng đặt vào trường hợp của Hoà và Thuý trong truyện ngắn "Đêm hạ huyền yên tĩnh" thì liệu mấy ai làm được như thế.

Trở lại trong cách viết tả thực của nhà văn Hồng Nhu, người đọc có thể nhận ra giữa những va chạm thực tế trong cuộc sống, không có cái gì đến một cánh bằng phẳng nhưng cũng không phải như thế người ta mất đi niềm tin, mất đi hi vọng. Trong cách kể của nhà văn Hồng Nhu, cuộc sống cũng như mọi sinh hoạt hàng ngày của người dân xóm nhỏ nơi Văn về ở - chỗ ngày xưa là nghĩa địa hoang vu ấy - đã trở thành một xóm nhỏ đầy ắp tình người. Người đọc sẽ bắt gặp không ít thì nhiều những nỗi niềm lắng đọng của nhà văn khi để cái tôi trữ tình của mình đi dọc trang viết. Người ấy đi lặng lẽ nhưng bước đi chắc chắn và khoẻ. Cũng như khi ông cho nhân vật mình chạy từ hiện đại về quá khứ với sự hồi sinh trong lịch sử thời đại. Truyện ngắn "Mùa cau ấp bẹ" đem lại cho người thưởng thức một vở kịch có nhiều nhân vật đan lồng quá khứ và hiện tại để bứt ra khỏi không gian riêng - mùa cau ngát hương ở một ngôi làng hoạt động cách mạng trong lòng địch những năm 1945. "Mùa cau ấp bẹ" giống như một bộ phim quay rất kỹ từng trường đoạn, khắc hoạ kỹ tính cách từng nhân vật. Trong lối hành văn của nhà văn Hồng Nhu, người đọc dễ nhận ra những kinh nghiệm thực tế mà ông cố đúc gắn vào tác phẩm. Nhân vật trong "Mùa cau ấp bẹ" hiện lên như một khối tình chung ấy của cả dân tộc mà tình yêu đôi lứa như một sức mạnh ngấm ngầm đưa con người vượt qua mọi gian khó, mọi nỗi sầu muộn và những mất mát... Dưới ngòi bút của nhà văn Hồng Nhu, nhân vật hiện lên theo tuyến trực diện, ít có tính cách đối chọi nhau mà chung nhau quan niệm sống, quan niệm sáng tạo.

Nếu không phải người nếm trải thì nhà văn Hồng Nhu đã không viết thành công truyện ngắn "Trà thiếu phụ". Đó là câu chuyện cảm động về hai bố con ông Kiệm và "mối tình" với Thuận - một cô giáo vùng cao. Sự từng trải trong cuộc đời đã cho phép ông Kiệm nhắn nhủ với con trai mình rằng: "Hình như con..." nghĩa là ông hiểu con trai mình đã để ý đến cô giáo Thuận. Trên vùng cao ấy, thời tiết đầu đông không làm không khí trở lạnh mà tự họ, hơi ấm tình người đã trở về bên ấm trà Bắc Thái đậm đặc, bên những đồi chè xanh mướt bạt ngàn. Trong cách viết của nhà văn Hồng Nhu, cuộc sống được thắt nút - mở nút tự nhiên như chính nụ cười hay việc Thuận lấy tay khép lại đôi tà áo trong gió mùa đông. Cuộc sống của bố con nhà ông Kiệm và bà con xóm bản đã được nhà văn cắm từng mốc thời gian. Như một sự tình cờ, khi người ta tự triết lý về một điều gì đó trong cuộc sống, nghĩa là người ta đã tự mình cho phép bản thân bộc lộ hết suy nghĩ của mình. Ông Kiệm cũng yêu con người của cô giáo Thuận, cũng đã "để lộ thân phận" của mình cho Thuận biết, nhưng khi nghĩ đến từng ánh mắt, cử chỉ của người con trai, ông đã nhận ra mọi việc mới bắt đầu. Tình yêu cũng giống như cuộc sống, vợ chồng ông Kiệm đã ly hôn chỉ vì một lý do nhiều người không tin được:

"Họ tốt với nhau quá nên không thể chung sống với nhau. Nếu tiếp tục, họ sẽ không còn tốt với nhau được nữa, ngay cả chính bản thân họ, cháu à! Song chuyện gì cũng phải có cái cớ. Cháu biết không, đứa con gái giữa không phải con ruột của ông chồng; và đứa con gái út cũng vậy, không phải con ruột của bà vợ..." (Trà thiếu phụ -tr 39). Đó chính là lý do mà ông Kiệm về sống với con trai, bắt đầu một cuộc đời mới nơi đây. Thuận cảm thông được hoàn cảnh của ông Kiệm khi được ông trút bầu tâm sự. Nhưng có lẽ chính con trai ông Kiệm đã lại một lần nữa thức tỉnh trái tim cô. Và tình yêu. Có lẽ thế nên ông Kiệm mới triết lý với con mình "Con biết không? Hồi xưa các cụ nhà ta sành sỏi cũng đã nói rồi! Rằng trà có nhiều nước. Nước đầu là "Nước thiếu nữ". Thanh khiết, ngào ngạt. Nước thứ hai là "Nước thiếu phụ". Đượm đà, ngào ngạt, sâu thẳm. Đấy mới là nước ngon nhất trong một ấm trà. Dư vị trong cổ họng cứ đọng hoài đọng mãi... không tan. Con có biết không, Toàn?"

Về với cuộc sống trong "Trà thiếu phụ", không ít thì nhiều, người đọc cũng thưởng thức được hương vị quê hương qua ngôn ngữ nhà văn. Một tập truyện ngắn độc đáo là tập truyện ngắn mang ý nghĩa nhân văn cao cả. "Trà thiếu phụ" phần lớn đã đáp ứng được yêu cầu khắt khe ấy từ độc giả. Như một lời độc thoại khi người ta cầm lên và đọc tập truyện "Trà thiếu phụ", cuộc đời hiện lên trên trang viết thật phong phú và đa dạng. Đó là nhân cách sống của một người cầm bút, nhà văn Hồng Nhu.

Huế, tháng 6/2003
N.T.A.Đ
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.